EDUCATION AND DISCIPLINE - GIÁO DỤC VÀ KỶ LUẬT
Any serious educational theory must consist of
two parts: a conception of the ends of life, and a science of psychological dynamics, i.e.
of the laws of mental change. Two men who differ as to the ends of life cannot hope to agree about education. The educational machine, throughout Western civilization, is dominated by two
ethical theories: that of Christianity, and that of nationalism. These two,
when taken seriously, are incompatible, as is becoming evident in Germany. For
my part, I hold that, where they differ, Christianity is preferable, but where
they agree, both are mistaken.
Bất cứ lý thuyết giáo dục nghiêm túc nào thì cũng phải
bao gồm hai phần: một khái niệm về cứu cánh của cuộc sống, và một khoa học về động lực thuộc tâm lý,
nghĩa là về những quy luật của sự thay đổi thuộc tâm trí. Hai người mà khác
nhau về cứu cánh của cuộc sống thì
không thể hy vọng sẽ đồng thuận về giáo
dục. Cỗ máy giáo dục xuyên suốt nền
văn minh phương Tây thì bị thống trị bởi hai lý thuyết thuộc đạo đức: một của
Kitô giáo, và một của chủ nghĩa dân tộc. Hai lý thuyết này khi được thực hiện
nghiêm túc thì không tương thích, như đang trở nên hiển nhiên ở nước Đức. Về phần
tôi, tôi cho rằng ở nơi nào mà hai lý thuyết này khác biệt thì Kitô giáo là được
ưa chuộng hơn, nhưng ở nơi nào mà hai lý thuyết này đồng thuận thì cả hai đều
là sai lầm.
The conception
which I should substitute as the purpose
of education is civilization, a term which, as I mean it, has a definition which is
partly individual, partly social. It consists, in the individual, of both
intellectual and moral qualities: intellectually, a certain minimum of general
knowledge, technical skill in one's own profession, and a habit of forming
opinions on evidence; morally, of impartiality, kindliness, and a modicum of
self-control. I should add a quality which is neither moral nor intellectual,
but perhaps physiological: zest and joy of life.
Cái khái niệm
mà tôi nên thay thế để làm chủ đích
của giáo dục chính là nền văn minh, một thuật ngữ mà, như tôi
muốn nói, thì định nghĩa của nó có phần thuộc về cá nhân và có phần thuộc về xã
hội. Về cá nhân thì nó bao gồm hai phẩm chất thuộc trí tuệ và thuộc đạo đức: về
trí tuệ là một lượng tối thiểu nhất định của kiến thức tổng quát, của kỹ
năng kỹ thuật trong nghề nghiệp chuyên môn của mình, và một thói quen hình
thành ý kiến trên bằng chứng; về đạo đức là [một lượng tối thiểu nhất định] của
tính công bằng, của sự ưu ái, và một chút sự tự kiểm soát. Tôi nên thêm một phẩm
chất mà chẳng thuộc về đạo đức cũng chẳng thuộc về trí tuệ, nhưng có lẽ thuộc về
sinh lý: đó là niềm say mê và niềm vui của cuộc sống.
In communities, civilization demands respect for law, justice as between man and
man, purposes not involving
permanent injury to any section of the human race, and intelligent adaptation
of means to ends. If these are to be
the purpose of education, it is a question for the science of psychology to consider what can be done towards
realizing them, and, in particular, what degree of freedom is likely to prove most effective.
On the
question of freedom in education there are at present three
main schools of thought, deriving partly from differences as to ends and partly from differences in
psychological theory.
Trong những cộng đồng thì nền văn minh đòi hỏi sự tôn trọng pháp luật, công lý như giữa người
và người, những chủ đích không bao
hàm sự làm tổn thương lâu dài cho bất cứ thành phần nào của loài người, và sự
thích ứng thông minh của phương tiện dẫn đến cứu cánh. Nếu những điều này là chủ đích của giáo dục thì
có một câu hỏi cho khoa học tâm lý để
xem xét điều gì là có thể được thực hiện hướng tới sự nhận biết chúng, và đặc
biệt, mức độ gì của sự tự do là có khuynh
hướng chứng minh hiệu quả nhất. Về câu hỏi của sự tự do trong giáo dục thì
hiện tại có ba trường phái chính của ý nghĩ, xuất phát một phần từ những sự
khác biệt về cứu cánh và một phần từ
những sự khác biệt về lý thuyết thuộc tâm lý.
There are those who say that children should be
completely free, however bad they may be; there are those who say they should
be completely subject to authority,
however good they may be; and there are those who say they should be free, but
in spite of freedom they should be
always good. This last party is larger than it has any logical right to be;
children, like adults, will not all be virtuous if they are all free. The
belief that liberty will ensure
moral perfection is a relic of Rousseauism, and would not survive a study of
animals and babies.
Có những người nói rằng trẻ em nên hoàn toàn được tự
do bất kể chúng tồi tệ ra sao; có những người nói rằng chúng nên hoàn toàn lệ
thuộc vào thẩm quyền bất kể chúng tốt
lành ra sao; và có những người nói rằng chúng nên được tự do, nhưng bất chấp sự tự do thì chúng nên luôn luôn tốt. Nhóm sau cuối thì đông hơn so với bất cứ quyền hợp lý nào; trẻ em, giống
như người lớn, sẽ không phải tất cả là đức hạnh nếu tất cả chúng được tự do. Niềm
tin rằng quyền tự do sẽ đảm bảo sự hoàn
hảo về đạo đức là một di tích của chủ nghĩa Rousseau, và sẽ không sống qua khỏi
sự nghiên cứu về động vật và trẻ sơ sinh.
Those who hold this belief think that education should have no positive purpose, but should merely offer an
environment suitable for spontaneous
development. I cannot agree with this school, which seems to me too
individualistic, and unduly indifferent to the importance of knowledge. We live
in communities which require co-operation, and it would be utopian to expect
all the necessary co-operation to result from spontaneous impulse. The
existence of a large population on a limited area is only possible owing to science and technique; education must, therefore, hand on the
necessary minimum of these.
Những người nắm giữ niềm tin này thì cho rằng giáo dục không nên có chủ đích tích cực, nhưng chỉ nên cung cấp
một môi trường thích hợp cho sự phát triển tự
phát. Tôi chẳng thể đồng thuận với trường phái này, vì theo tôi thì nó quá
cá nhân chủ nghĩa, và nó dửng dung quá đáng đối với tầm quan trọng của kiến
thức. Chúng ta sống trong những cộng đồng mà đòi hỏi sự hợp tác, và sẽ là điều
không tưởng để mong chờ tất cả sự hợp tác cần thiết để dẫn kết quả từ sự xung động tự phát. Sự tồn tại của một lượng dân số lớn trên một khu vực hạn hẹp
thì chỉ có thể có được nhờ vào khoa học
và kỹ thuật; do đó giáo dục phải
chuyển giao cái lượng tối thiểu cần thiết của những điều này.
The educators who allow most freedom are men whose success depends
upon a degree of benevolence, self-control, and trained intelligence which can
hardly be generated where every impulse
is left unchecked; their merits, therefore, are not likely to be perpetuated if
their methods are undiluted. Education,
viewed from a social standpoint, must be something more positive than a mere
opportunity for growth. It must, of course, provide this, but it must also
provide a mental and moral equipment which children cannot acquire entirely for
themselves.
Những nhà giáo dục mà cho phép sự tự do nhiều nhất là những người mà sự thành công của họ thì phụ
thuộc vào mức độ của lòng nhân đức, của sự tự kiểm soát, và của sự thông minh được
đào tạo, cái mà khó có thể được tạo ra ở những nơi mọi sự xung động bị bỏ bê không kiểm soát; do đó những công trạng của họ
không có khuynh hướng để được ghi nhớ nếu phương pháp của họ bị cô đặc. Giáo dục, được nhìn từ góc độ xã hội,
phải là một cái gì đó tích cực hơn so với chỉ là một cơ hội cho sự tăng trưởng.
Tất nhiên nó phải cung ứng điều này, nhưng nó cũng phải cung ứng một thiết bị
tinh thần và đạo đức mà trẻ em không thể tiếp thu hoàn toàn cho chính mình.
The arguments
in favour of a great degree of freedom
in education are derived not from
man's natural goodness, but from the effects
of authority, both on those who
suffer it and on those who exercise it. Those who are subject to authority become either submissive or
rebellious, and each attitude has its drawbacks.
Những cuộc tranh
luận ủng hộ mức độ lớn lao của sự tự
do trong giáo dục thì được bắt
nguồn không phải từ lòng tốt tự nhiên của con người, nhưng từ những tác động của thẩm quyền, cả trên những người chịu đựng nó và trên những người thực thi
nó. Những người mà lệ thuộc vào thẩm quyền
thì trở nên hoặc phục tùng hoặc nổi loạn, và mỗi thái độ đều có những nhược điểm
của nó.
The submissive lose initiative, both in thought
and action; moreover, the anger generated by the feeling of being thwarted tends
to find an outlet in bullying those who are weaker. That is why tyrannical
institutions are self-perpetuating: what a man has suffered from his father he
inflicts upon his son, and the humiliations which he remembers having endured
at his public school he passes on to “natives" when he
becomes an empire-builder.
Những người phục tùng đánh mất óc sáng kiến cả trong suy
nghĩ và hành động; hơn nữa, cơn giận dữ được phát sinh bởi cảm giác bị ngăn cản
thì có xu hướng tìm một chỗ thoát ra trong việc bắt nạt những người yếu hơn. Đó là lý
do tại sao những tổ chức độc tài bạo ngược thì tự luôn tồn tại: một người đàn
ông đem những điều mình chịu đau đớn từ người cha của mình để giáng lên con
trai của mình; và những sự lăng nhục mà ông nhớ đã phải chịu đựng ở trường công
lập của mình thì ông giáng trên “những người bản xứ” khi ông trở thành kẻ xây dựng
đế chế.
Thus an unduly authoritative education turns the pupils into timid
tyrants, incapable of either claiming or tolerating originality in word or
deed. The effect upon the educators
is even worse: they tend to become sadistic disciplinarians, glad to inspire
terror, and content to inspire nothing else. As these men represent knowledge,
the pupils acquire a horror of knowledge, which, among the English upper-class,
is supposed to be part of human nature, but is really part of the well-grounded
hatred of the authoritarian pedagogue.
Như thế, một
sự giáo dục có thẩm quyền quá mức sẽ
biến những đứa học sinh thành những kẻ bạo ngược nhút nhát, không có khả năng
hoặc là kêu đòi hoặc là chịu đựng tính chất căn nguyên bằng lời nói hoặc hành vi.
Tác động lên trên các nhà giáo dục thì thậm chí tồi tệ hơn: họ
có xu hướng trở nên những người thực thi kỷ luật khoái ác, vui mừng để truyền hứng
cảm sự khủng bố, và chẳng hài lòng để truyền hứng cảm bất cứ gì khác. Khi những
con người này tiêu biểu cho kiến thức, thì những học sinh tiếp thu một nỗi kinh
hoàng của kiến thức, mà trong lớp cao cấp tiếng Anh thì được coi là một phần của
bản chất con người, nhưng thực sự là một phần của sự căm ghét có căn cứ của nhà
sư phạm chuyên quyền.
Rebels, on the other hand, though they may be
necessary, can hardly be just to what exists. Moreover, there are many ways of
rebelling, and only a small minority of these are wise. Galileo was a rebel and
was wise; believers in the flat-earth theory are equally rebels, but are
foolish. There is a great danger in the tendency to suppose that opposition to authority is essentially meritorious
and that unconventional opinions are bound to be correct: no useful purpose is served by smashing
lamp-posts or maintaining Shakespeare to be no poet. Yet this excessive
rebelliousness is often the effect
that too much authority has on
spirited pupils. And when rebels become educators, they sometimes encourage
defiance in their pupils, for whom at the same time they are trying to produce
a perfect environment, although these two aims are scarcely compatible.
Mặt khác, những người nổi loạn, mặc dù họ có thể là cần
thiết, nhưng khó lòng là hợp lẽ phải với những gì hiện hữu. Hơn nữa, có rất nhiều
lối nổi loạn, và chỉ có một thiểu số nhỏ trong số này là khôn ngoan. Galileo đã
là một người nổi loạn và đã là khôn ngoan; những tín hữu trong học thuyết trái đất
phẳng cũng là những người nổi loạn, nhưng là những người ngu ngốc. Có một nguy cơ lớn
trong xu hướng cho rằng sự chống đối với thẩm
quyền là cách thiết yếu đáng khen và rằng những ý kiến không theo quy ước
thì ắt buộc đúng đắn: người ta chẳng phục vụ một chủ đích hữu ích nào bằng cách đập vỡ những trụ đèn hoặc khăng
khăng Shakespeare không phải là nhà thơ. Tuy nhiên, sự phản kháng quá mức thì
thường là cái tác động mà quá nhiều thẩm quyền đã có trên những học sinh linh
hoạt. Và khi những người nổi loạn trở trên những nhà giáo dục thì họ đôi khi khuyến
khích sự bất chấp ở những học sinh của mình, những người mà cùng lúc họ đang cố
gắng để tạo ra một môi trường hoàn hảo, mặc dù hai mục tiêu này là khó lòng
tương thích.
What is wanted is neither submissiveness nor
rebellion, but good nature, and general friendliness both to people and to new
ideas. These qualities are due in part to physical causes, to which
old-fashioned educators paid too little attention; but they are due still more to
freedom from the feeling of baffled
impotence which arises when vital impulses
are thwarted. If the young are to grow into friendly adults, it is necessary,
in most cases, that they should feel their environment friendly.
Những gì được ưa muốn thì không phải là sự phục tùng
cũng không phải sự nổi loạn, nhưng là bản chất tốt đẹp, và sự thân thiện chung
đối với cả con người và cả những ý tưởng mới. Những phẩm chất này là nhờ vào phần
nào những nguyên nhân thực thể, mà những nhà giáo dục lỗi thời đã chú ý quá ít;
nhưng họ là vẫn còn nhờ nhiều hơn vào sự
tự do khỏi cái cảm giác bất lực bối rối mà phát sinh khi những sự xung động sinh động bị cản trở. Nếu những
người trẻ tuổi ắt phát triển thành người lớn thân thiện thì trong hầu hết các
trường hợp nó là cần thiết rằng chúng nên cảm thấy môi trường của chúng đầy thân
thiện.
This requires that there should be a certain
sympathy with the child's important desires, and not merely an attempt to use
him for some abstract end such as the glory of God or the greatness of one's
country. And, in teaching, every attempt should be made to cause the pupil to
feel that it is worth his while to know what is being taught
-
at least
when this is true. When the pupil co-operates willingly, he learns twice as
fast and with half the fatigue. All these are valid reasons for a very great
degree of freedom.
Điều này đòi hỏi phải có một sự đồng cảm nhất định với
những khát khao quan trọng của đứa trẻ, và không chỉ đơn thuần là một nỗ lực để
sử dụng nó cho cứu cánh trừu tượng nào
đó như là vinh quang của Thiên Chúa hoặc sự vĩ đại của đất nước mình. Và trong
giảng dạy thì nên làm mọi nỗ lực để khiến đứa học sinh ấy cảm thấy rằng thật đáng
bỏ công cho nó để biết điều gì đang được dạy - ít nhất khi nào điều này là
đúng. Khi đứa học sinh sẵn lòng cộng tác thì nó học biết nhanh gấp hai lần và chỉ
nửa phần mệt mỏi. Tất cả những này là những lý do hợp lý cho một mức độ rất lớn
của sự tự do.
It is easy, however, to carry the argument too far. It is not desirable
that children, in avoiding the vices of the slave, should acquire those of the
aristocrat. Consideration for
others, not only in great matters, but also in little everyday things, is an
essential element in civilization,
without which social life would be intolerable. I am not thinking of mere forms
of politeness, such as saying "please" and "thank you":
formal manners are most fully developed among barbarians, and diminish with
every advance in culture.
Tuy nhiên rất dễ dàng để mang cuộc tranh luận quá xa. Nó không phải là đáng mong muốn rằng trẻ em
khi tránh những nết của kẻ nô lệ thì phải tiếp thu những nết của kẻ quý tộc. Sự quan tâm đến những người khác, không
chỉ trong các vấn đề lớn nhưng cũng trong những điều nhỏ nhặt hàng ngày, chính là
một yếu tố thiết yếu trong nền văn minh,
mà không có nó thì cuộc sống xã hội sẽ không thể chịu đựng nỗi. Tôi không nghĩ
đến hình thức đơn thuần của phép lịch sự, như là nói "xin vui lòng"
và "cảm ơn": những cung cách đầy hình thức thì được phát triển đầy đủ
nhất giữa những người man rợ, và giảm bớt với mỗi tiến bộ trong văn hóa.
I am thinking rather of willingness to take a
fair share of necessary work, to be obliging in small ways that save trouble on
the balance. Sanity itself is a form of politeness and it is not desirable to
give a child a sense of omnipotence, or a belief that adults exist only to
minister to the pleasures of the young. And those who disapprove of the
existence of the idle rich are hardly consistent if they bring up their
children without any sense that work is necessary, and without the habits that
make continuous application possible.
Tôi đang suy nghĩ hơn về sự sẵn lòng để nhận lấy phần
chia sẻ công bằng của công việc cần thiết, để sốt sắng trong những lối nhỏ mà cứu
khỏi sự rắc rối trên sự cân bằng. Sự đúng mực chính nó là một hình thức của sự
lịch sự, và nó không là điều đáng mong muốn khi trao cho một đứa trẻ một cảm thức
của sự toàn năng, hoặc một niềm tin rằng người lớn tồn tại chỉ để chăm chút đến
những niềm vui thú của người trẻ. Và những người bất tán thành sự tồn tại của những
người giàu nhàn rỗi thì khó lòng thích hợp nếu họ nuôi nấng con cái của họ mà
không hề cảm thức được rằng công việc là cần thiết, và mà không có những thói
quen tạo điều kiện cho sự ứng dụng liên tục.
There is another consideration to which some advocates of freedom attach too little importance. In a community of children
which is left without adult interference there is a tyranny of the stronger,
which is likely to be far more brutal than most adult tyranny. If two children
of two or three years old are left to play together, they will, after a few
fights, discover which is bound to be the victor, and the other will then
become a slave. Where the number of children is larger, one or two acquire
complete mastery, and the others have far less liberty than they would have if the adults interfered to protect
the weaker and less pugnacious. Consideration
for others does not, with most children, arise spontaneously, but has to be taught, and can hardly be taught
except by the exercise of authority.
This is perhaps the most important argument
against the abdication of the adults.
Có một sự quan
tâm khác mà một số người ủng hộ sự tự
do đã rất ít coi trọng. Trong một cộng đồng của những đứa trẻ mà không có sự
can thiệp của người lớn thì có sự bạo ngược của những đứa mạnh hơn, mà có
khuynh hướng tàn bạo hơn xa so với hầu hết sự bạo ngược của người lớn. Nếu hai
đứa trẻ hai hoặc ba tuổi được bỏ lại chơi với nhau thì sau một vài giằng co chúng
sẽ khám phá đứa nào nhất định để là kẻ thắng, và đứa kia khi ấy sẽ trở thành nô
lệ. Ở nơi nào mà có số lượng lớn hơn của những đứa trẻ thì một hoặc hai đứa sẽ
nắm quyền làm chủ hoàn toàn, và những đứa khác có ít quyền tự do hơn so với chúng đáng có nếu người lớn can thiệp để bảo
vệ những đứa yếu hơn và ít thích gây gổ hơn. Đối với hầu hết những đứa trẻ thì sự quan tâm đến người khác chẳng phát
sinh một cách tự phát, nhưng phải được
dạy, và khó lòng dạy chúng nếu không thực thi thẩm quyền. Đây có lẽ là cuộc
tranh luận quan trọng nhất chống lại sự từ bỏ vai trò của người lớn.
I do
not think that educators have yet solved the problem of combining the desirable
forms of freedom with the necessary
minimum of moral training. The right solution, it must be admitted, is often
made impossible by parents before the child is brought to an enlightened
school. Just as psychoanalysts, from their clinical
experience, conclude that we are all mad, so the authorities in modern schools,
from their contact with pupils whose parents have made them unmanageable, are
disposed to conclude that all children are "difficult" and all
parents utterly foolish.
Tôi không nghĩ rằng các nhà giáo dục đã giải quyết rồi
nan đề của sự kết hợp những hình thức đáng mong muốn của sự tự do với sự tối thiểu cần thiết của sự đào tạo đạo đức. Người
ta phải thú nhận rằng những bậc cha mẹ thường làm cho giải pháp đúng đắn thành
khó thực hiện trước khi đứa trẻ được đưa đến trường để được khai trí. Vừa như những
nhà phân tâm học kết luận từ kinh nghiệm lâm sàng của họ thì chúng ta tất cả đều
khùng, vì thế những bậc thẩm quyền trong những trường học hiện đại, từ sự liên
lạc của họ với những học sinh mà cha mẹ của chúng đã làm chúng thành khó dạy, thì
có ý kết luận rằng tất cả những đứa trẻ là "khó khăn" và tất cả những
bậc cha mẹ là hoàn toàn ngu ngốc.
Children who have been driven wild by parental
tyranny (which often takes the form of solicitous affection) may require a
longer or shorter period of complete liberty
before they can view any adult without suspicion. But children who have been
sensibly handled at home can bear to be checked in minor ways, so long as they
feel that they are being helped in the ways that they themselves regard as
important. Adults who like children, and are not reduced to a condition of
nervous exhaustion by their company, can achieve a great deal in the way of
discipline without ceasing to be regarded with friendly feelings by their
pupils.
Những đứa trẻ mà đã bị lái đẩy thành lêu lổng bởi sự bạo
ngược của cha mẹ (mà thường có dạng của tình cảm ân cần) thì có thể cần đến một
khoảng thời gian dài hơn hoặc ngắn hơn của quyền
tự do hoàn toàn trước khi chúng có thể quan sát bất cứ người lớn nào mà
không có sự nghi ngờ. Nhưng những đứa trẻ mà được đối xử cách hợp lý tại nhà thì
có thể chịu được sự kiểm tra trong những lối nhỏ, miễn là chúng cảm thấy rằng chúng
đang được giúp đỡ trong những lối mà chính chúng xem là quan trọng. Người lớn mà
thích trẻ em và không bị rơi vào tình trạng kiệt quệ thần kinh qua việc bầu bạn
với chúng thì có thể thành tựu nhiều trong cái lối của kỷ luật mà không hề ngừng
được lưu tâm với cảm giác thân thiện bởi học sinh của họ.
I think
modern educational theorists are inclined to attach too much importance to the
negative virtue of not interfering with children, and too little to the
positive merit of enjoying their company. If you have the sort of liking for
children that many people have for horses or dogs, they will be apt to respond
to your suggestions, and to accept prohibitions, perhaps with some
good-humoured grumbling, but without resentment. It is no use to have the sort
of liking that consists in regarding them as a field for valuable social
endeavour, or – what amounts to the same thing
– as an outlet for power-impulses.
Tôi nghĩ những nhà lý luận giáo dục hiện đại thì có xu
hướng coi trọng quá nhiều tới đức tính tiêu cực của việc không can thiệp vào những
đứa trẻ, và quá ít tới công trạng tích cực của việc bầu bạn với chúng. Nếu bạn có
loại kiểu thích trẻ con như kiểu người ta thích ngựa hoặc chó thì chúng sẽ dễ chịu
để đáp ứng những đề xuất của bạn và để chấp nhận những sự cấm đoán, có lẽ với chút
càu nhàu vui tính nhưng không oán giận. Thật là vô ích để có loại kiểu thích mà
bao gồm việc xem chúng như một lĩnh vực cho nỗ lực xã hội đầy giá trị, hoặc –
cùng một kiểu ấy – như một chỗ thoát ra cho điện xung.
No child will be grateful for an interest in
him that springs from the thought that he will have a vote to be secured for
your party or a body to be sacrificed to king and country. The desirable sort
of interest is that which consists in spontaneous
pleasure in the presence of children, without any ulterior purpose. Teachers who have this quality will seldom need to
interfere with children's freedom,
but will be able to do so, when necessary, without causing psychological
damage.
Không một đứa trẻ nào sẽ biết ơn cho một niềm hứng thú
trong nó mà nẩy ra từ ý nghĩ rằng nó sẽ có một lá phiếu để được bảo đảm cho phe
phái của bạn hoặc một thân thể để bị hy sinh cho vua và đất nước. Cái loại hứng
thú đáng mong muốn là cái mà cốt ở trong niềm vui thú tự phát trong sự hiện diện của những đứa trẻ, mà không hề cần bất cứ
chủ đích thầm kín nào. Những giáo
viên mà có phẩm chất này sẽ hiếm khi cần để can thiệp vào sự tự do của những đứa trẻ, nhưng sẽ có khả năng để làm như thế,
khi cần thiết, mà không hề gây ra mối hại thuộc tâm lý.
Unfortunately, it is utterly impossible for
over-worked teachers to preserve an instinctive liking for children; they are
bound to come to feel towards them as the proverbial confectioner's apprentice
does towards macaroons. I do not think that education ought to be anyone's whole profession: it should be
undertaken for at most two hours a day by people whose remaining hours are
spent away from children.
Thật không may, những giáo viên làm việc quá sức thì
không có khả năng để duy trì kiểu thích thuộc bản năng dành cho những đứa trẻ;
họ buộc để đến để cảm xúc hướng tới chúng như những người học nghề kẹo mức theo
tục ngữ hướng tới bánh hạnh nhân. Tôi không nghĩ rằng giáo dục đáng nên là nghề chuyên môn trọn vẹn của bất cứ ai: nó nên
được đảm nhận nhiều nhất là hai giờ một ngày bởi những con người mà những giờ giấc
còn lại của họ thì được tiêu phí xa khỏi những đứa trẻ.
The society of the young is fatiguing,
especially when strict discipline is avoided. Fatigue, in the end, produces
irritation, which is likely to express itself somehow, whatever theories the
harassed teacher may have taught himself or herself to believe. The necessary
friendliness cannot be preserved by self-control alone. But where it exists, it
should be unnecessary to have rules in advance as to how "naughty"
children are to be treated, since impulse
is likely to lead to the right decision, and almost any decision will be right
if the child feels that you like him. No rules, however wise, are a substitute
for affection and tact.
Cái xã hội của người trẻ thì dễ gây mệt mỏi, đặc biệt
khi mà kỷ luật nghiêm khắc bị tránh né. Cuối cùng thì sự mệt mỏi sản sinh sự
cáu gắt, mà có khuynh hướng diễn tả chính nó bằng cách nào đó, bất cứ lý thuyết
gì mà người giáo viên ưu phiền có thể đã dạy chính mình để tin tưởng. Sự thân
thiện cần thiết thì không thể được duy trì bằng sự tự kiểm soát đơn độc. Nhưng nơi
nào nó tồn tại thì không cần thiết để có những quy định trước về thế nào những đứa
trẻ "nghịch ngợm" được xử lí, bởi vì sự xung động thì có khuynh hướng dẫn tới quyết định đúng đắn, và hầu
như bất cứ quyết định nào cũng đúng đắn nếu đứa trẻ cảm thấy rằng bạn thích nó.
Bất chấp khôn ngoan ra sao thì không luật lệ nào là điều thay thế cho sự yêu mến
và sự khéo xử.
Nguồn tiếng Anh: http://www.zona-pellucida.com/essay-russel.html
Nhận xét
Đăng nhận xét