LÁI XE CỦA TÔI
(Truyện ngắnドライブ・マイ・カー của nhà văn Haruki Murakami được Bút Lông Kim dịch ra tiếng Việt
từ nguyên bản tiếng Nhật (với sự trợ giúp của
Google Dịch và có tham khảo bản tiếng Anh của Ted Goossen, và bản tiếng Việt của
Trương Thùy Lan)
これまで女性が運転する車に何度も乗ったが、家か福ふくの目からすれば、彼女たちの運転ぶりはおおむね二種類に分けられた。いささか乱暴すぎるか、いささか慎重すぎるか、どちらかだ。後者の方が前者より──我々はそのことに感謝するべきなのだろう──ずっと多かった。一般的に言えば、女性ドライバーたちは男性よりも丁寧な、慎重な運転をする。もちろん丁寧で慎重な運転に苦情を申し立てる筋合いはない。それでもその運転ぶりは時として、周囲のドライバーを苛いら立だたせるかもしれない。 |
Đã từng ngồi trên xe hơi do phụ nữ cầm lái nhiều lần, nhưng từ góc độ của Iefuku thì phong cách lái xe của họ
đại khái được chia thành hai loại. Hoặc hơi quá bạo lực, hoặc hơi quá cẩn thận. Cái sau nhiều hơn cái trước – chúng ta nên biết
ơn điều đó. Nói chung, phụ nữ cầm tay lái thì lịch sự và thận trọng hơn nam
giới. Tất nhiên, không có lí do gì để phàn nàn về việc lái xe lịch sự
và cẩn thận. Tuy nhiên, hiệu suất lái xe đôi khi có thể gây khó chịu cho những
người lái xe xung quanh. |
その一方で「乱暴な側」に属する女性ドライバーの多くは、「自分の運転は上手だ」と信じているように見える。彼女たちは多くの場合、慎重に過ぎる女性ドライバーたちを馬鹿にし、自分たちがそうではないことを誇らしく思っている。しかし彼女たちが大胆に車線変更をするとき、まわりの何人かのドライバーがため息をつきながら、あるいは褒めがたい言葉を口にしながら、ブレーキ・ペダルをいくぶん強めに踏んでいることには、あまり気がついていないようだった。 |
Mặt khác, nhiều nữ tài xế “lì lợm” lại tỏ ra tin rằng mình “lái giỏi”. Họ thường chế giễu những nữ tài xế quá thận trọng và tự
hào rằng họ không như vậy.
Nhưng khi họ thay đổi làn đường táo bạo thì có thể nhận thấy rằng một số người
lái xe xung quanh họ đang thở dài hoặc thốt ra những từ khó tả và đạp mạnh
hơn vào bàn đạp phanh. |
もちろんどちらの側にも属さないものもいる。乱暴すぎもせず、慎重すぎもしない、ごく普通の運転をする女性たちだ。その中にはかなり運転の達者な女性たちもいた。しかしそんな場合でも家福は、彼女たちからなぜか常に緊張の気配を感じ取ることになった。何がどうと具体的に指摘はできないのだが、助手席に座っていると、そういう「円滑ではない」空気が伝わってきて、どうも落ち着かなくなってしまう。いやに喉が渇いたり、あるいは沈黙を埋めるために、しなくてもいいつまらない話を始めたりする。 |
Tất nhiên, một số không thuộc về bên nào. Họ là những người phụ nữ cầm lái xe bình thường, không quá bạo lực cũng không quá thận trọng. Một số người trong số họ đã khá thành thạo trong việc
lái xe. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp như vậy thì Iefuku luôn cảm
thấy căng thẳng từ họ vì một lí do nào đó. Không thể chỉ ra chính xác điều gì, nhưng khi ngồi trên ghế hành khách thì loại không khí “chẳng
êm ái” đó thổi qua và y cảm thấy khó chịu. Không, y khát, hoặc y bắt đầu một câu chuyện nhàm chán mà không cần
phải làm để lấp đầy khoảng lặng. |
もちろん男の中にも運転の上手なものもいれば、そうでないものもいる。しかし彼らの運転は多くの場合、そういう緊張を感じさせない。とくに彼らがリラックスしているというわけではない。たぶん実際、緊張もしているのだろう。しかし彼らはどうやらその緊張感と自分のあり方とを自然に──おそらくは無意識的に──分離させることができるみたいだ。運転に神経を遣いつつ、その一方でごく通常のレベルで会話をし、行動をとる。それはそれ、こちらはこちらという具合に。そのような違いがどこから生じるのか、家福にはわからない。 |
Tất nhiên, một số đàn ông lái xe giỏi, trong khi những người khác thì không. Nhưng việc lái xe của họ thường không cảm thấy căng thẳng
thế. Đặc biệt là họ không được thư thái. Có lẽ họ thực sự lo lắng. Nhưng họ dường như có thể tự nhiên – có lẽ một cách vô
thức – tách
sự căng thẳng đó khỏi những gì họ đang có. Trong khi lo lắng về việc lái xe thì họ nói chuyện và
hành động ở mức độ bình thường. Đó là đó, đây là đây, và như thế. Iefuku không biết sự khác biệt như vậy đến từ đâu. |
彼が男性と女性を区別して考えることは、日常的なレベルではあまりない。男女の能力差を感じることもほとんどない。家福は職業柄、男女ほぼ同数の相手と仕事をするし、女性と仕事をしているときの方がむしろ落ち着けるくらいだ。彼女たちはおおむね細部に注意深く、また耳がよい。しかし車の運転に限って言えば、女性が運転する車に乗ると、隣でハンドルを握っているのが女性であるという事実を彼は常に意識させられた。しかしそのような意見を誰かに語ったことはない。それは人前で口にするには不適切な話題であるように思えたからだ。 |
Y không phân biệt được nam và nữ trong công việc thường
ngày. Hầu như không có sự khác biệt về khả năng
giữa nam và nữ. Iefuku làm việc với số lượng đàn ông và phụ
nữ ngang nhau trong một nghề, và
khá bình tĩnh khi làm việc với phụ nữ. Họ thường cẩn thận về các chi tiết và có đôi tai tốt. Nhưng riêng chuyện lái xe thì cứ ngồi xe do phụ nữ cầm
lái là y lại bị chi phối bởi sự thật rằng ngưòi đang cầm vô lăng bên cạnh y
là phụ nữ. Nhưng y chưa bao giờ nói với ai một ý kiến
như vậy. Đó dường như là một chủ đề không thích hợp
để nói trước đám đông. |
だから彼が専属の運転手を捜しているという話をして、修理工場の経営者である大場が若い女性ドライバーを推薦してくれたとき、家福はそれほど楽しげな表情を顔に浮かべることができなかった。大場はそれを見て微笑した。気持ちはわかりますよ、と言わんばかりに。 |
Vì vậy, khi y
nói về việc tìm kiếm một người lái xe tận tâm, và Oba, chủ
một cửa hàng sửa chữa, giới thiệu một nữ tài xế trẻ thì Iefuku đã
có một vẻ mặt kém vui mừng như vậy. Oba mỉm cười khi nhìn thấy nó. Chỉ để nói rằng gã hiểu cảm giác của y. |
「でもね、家福さん、この子の運転の腕は確かですよ。そいつは私が間違いなく保証します。よかったら会うだけでも一度会ってやってくれませんか?」 |
“Nhưng,
anh Iefuku nè, tôi chắc chắn về kĩ năng lái xe của cô gái này.
Tôi chắc chắn đảm bảo điều đó. Anh có muốn gặp cổ một
lần không?” |
「いいよ。あなたがそう言うなら」と家福は言った。彼は一日でも早く運転手を必要としていたし、大場は信頼のできる男だった。もう十五年のつきあいになる。針金のような硬い髪をした、小鬼を思わせる風貌の男だが、こと車に関しては彼の意見に従ってまず間違いはない。 |
“Được,
nếu bạn nói vậy,” Iefuku nói. Y cần một người lái xe càng sớm càng tốt, và Oba là một người đàn ông đáng tin cậy. Họ
biết nhau đã mười lăm niên. Một người đàn ông với mái tóc cứng như rễ
tre và vẻ ngoài gợi nhớ đến một con quỷ, nhưng không có nghi ngờ gì về ý kiến của gã về chuyện
xe cộ. |
「念のためにアラインメントを見ておきたいんですが、そちらに問題がなければ、あさっての二時には完全な状態で車をお渡しできると思います。そのときに本人にここに来させますから、試しに近所をちょっと運転させてみたらいかがでしょう? もし気に入らなければ、そう言って下さい。私に気を遣ったりする必要はまったくありません」 |
“Để an toàn
thì tôi sẽ căn chỉnh độ thẳng hàng
của bánh xe của anh, nhưng nếu không có nan đề gì thì tôi nghĩ mình có thể bàn
giao xe trong tình trạng hoàn hảo vào lúc 2 giờ chiều ngày mốt.
Tôi sẽ hú cổ đến đây vào lúc đó.
Tại sao anh không thử để cổ lái xe quanh phố một chút? Nếu anh không thích cổ
thì hãy nói ra. Anh không phải khách sáo gì cả.” |
「年はいくつくらいなんだ?」 |
“Cổ
bao nhiêu tuổi?” |
「たぶん二十代の半ばだと思います。あらためて訊いたことはありませんが」と大場は言った。それから少し顔をしかめた。「ただ、さっきも言ったように運転の腕にはまったく問題はないんですがね……」 |
“Tôi
nghĩ cổ đang ở độ tuổi ngoài hai mươi.
Tôi chưa hỏi lại,” Oba nói. Sau đó gã hơi cau mày. “Như tôi đã nói,
không có nan đề gì với kĩ năng lái xe của cổ,
nhưng...” |
「でも?」 |
“Nhưng?” |
「でもね、なんていうか、ちょいと偏屈なところがありまして」 |
“Nhưng,
ý của tôi là, có một độ lệch.” |
「どんな?」 |
“Loại
nào?” |
「ぶっきらぼうで、無口で、むやみに煙草を吸います」と大場は言った。「お会いになったらわかると思うんですが、かわいげのある娘というようなタイプじゃないです。ほとんどにこりともしません。それからはっきり言って、ちょっとぶすいかもしれません」 |
“Cổ
thẳng thừng, kín tiếng và hút thuốc một cách không cần thiết,”
Oba nói. “Tôi nghĩ anh sẽ biết khi cổ gặp anh,
nhưng cổ không phải là kiểu con gái duyên dáng.
Hầu như không thực sự tươi cười.
Và nói thẳng ra, cổ có thể hơi vô duyên.” |
「それはかまわない。あまり美人だとこっちも落ち着かないし、妙な噂が立っても困る」 |
“Chuyện đó tôi không ngại. Đẹp quá tôi cũng
không thấy thoải mái, nhỡ bị đồn linh tinh thì phiền lắm.” |
「なら、ちょうどいいかもしれません」 |
“Nếu vậy thì có khi hợp đấy.” |
「いずれにせよ、運転の腕は確かなんだね?」 |
“Trong
mọi trường hợp thì bạn chắc chắn về kĩ năng lái xe của cổ chứ?” |
「そいつはしっかりしてます。女性にしてはとかそういうんじゃなくて、ただひたすらうまいんです」 |
“Cổ lái rất chắc tay. Tôi nói không chỉ so riêng với phụ nữ đâu, mà là giỏi thực sự đấy.” |
「今はどんな仕事をしているの?」 |
“Hiện
tại cổ đang làm công việc gì?” |
「さあ、私にもよくわかりません。コンビニでレジをやったり、宅配便の運転をしたり。そういう短期間のアルバイトで食いつないでいるみたいです。他に条件の良い話があれば、すぐにでもやめられる仕事です。知人の紹介でうちを尋ねて来たんですが、うちもそんなに景気が良くないですし、新たに従業員を雇うような余裕はありません。ときどき必要なときに声をかけるくらいです。でもなかなかしっかりした子だと私は思います。少なくとも酒はいっさい口にしません」 |
“Chà, tôi cũng không rõ. Lúc thì làm thu ngân ở cửa hàng tiện lợi, lúc lại đi chuyển phát nhanh. Kiếm sống bằng mấy
việc làm thêm ngắn hạn như vậy. Kiểu việc có thể bỏ
ngay khi kiếm được việc khác tốt hơn. Cổ
đến đây theo lời giới thiệu của một người bạn để tìm việc làm,
nhưng kinh tế không tốt nên tôi không đủ khả năng để thuê nhân viên mới.
Khi nào cần thì tôi mới hú cổ. Nhưng tôi nghĩ cổ là một
cô gái thực sự đáng tin cậy, ít nhất thì cổ không nhậu
nhẹt gì cả.” |
飲酒の話題は家福の顔を曇らせた。右手の指が自然に唇に伸びた。 |
Khuôn mặt của Iefuku tối sầm lại khi nhắc đến nhậu. Ngón tay phải của y bất giác đặt lên môi. |
「あさっての二時に会ってみよう」と家福は言った。ぶっきらぼうで無口でかわいげがないというところが彼の興味を惹いた。 |
“Hãy
gặp nhau vào ngày mốt,” Iefuku nói. Mấy
điểm thẳng thừng, kín tiếng và không duyên dáng khiến y tò mò. |
|
|
二日後の午後二時には、黄色のサーブ900コンバーティブルは修理を終えられていた。右前面のへこんだ部分は元通りに修復され、塗装も継ぎ目がほとんどわからないように丁寧に仕上がっていた。エンジンは点検整備され、ギアは再調整され、ブレーキパッドもワイパーブレードも新しいものに交換された。洗車され、ホイールを磨かれ、ワックスをかけられていた。いつもどおり大場の仕事にはそつがなかった。家福はもう十二年そのサーブに乗り続け、走行距離も十万キロを超えている。キャンバスの屋根もだんだんくたびれてきた。強い雨の降る日には隙間の水漏れを気にする必要がある。しかし今のところ新車に買い換えるつもりはない。これまで大きなトラブルは皆無だったし、何よりも彼はその車に個人的な愛着を持っていた。冬でも夏でも、車の屋根を開けて運転するのが好きだった。冬には分厚いコートを着てマフラーを首に巻き、夏には帽子をかぶって濃いサングラスをかけ、ハンドルを握った。シフトの上げ下げを楽しみながら都内の道路を移動し、信号待ちのあいだにのんびり空を眺めた。流れる雲や、電線にとまった鳥たちを観察する。そういうのが彼の生活スタイルの欠かせない一部になっていた。家福はゆっくりとサーブのまわりを一周し、レース前の馬の体調を確かめる人のように、あちこち細かい部分を点検した。 |
Hai hôm sau, lúc 2 giờ chiều, chiếc Saab 900 Convertible màu vàng đã được sửa chữa
xong. Thanh chắn bùn trước bên phải bị móp đã được
trả lại hình dáng ban đầu, lớp
sơn được vá gần như hoàn hảo với phần còn lại của xe. Động cơ đã được kiểm tra, cần
số được điều chỉnh lại, má phanh và gạt mưa được thay thế bằng những cái mới. Chiếc xe đã được rửa sạch, bánh xe được đánh bóng và quét sáp. Như thường lệ, công việc của Oba không một chút sơ suất. Iefuku đã sở hữu chiếc xe trong mười hai niên và đã đi
gần một trăm nghìn dặm cùng nó. Mui xe đã cho thấy tuổi của nó. Vào những ngày mưa lớn thì cần đề phòng tình trạng rò
rỉ nước ở các khe hở. Nhưng trước mắt, Iefuku không có ý định mua một chiếc xe mới hơn. Saab không những chưa bao giờ gây rắc rối lớn cho y, mà bản thân y còn rất gắn bó với nó. Y thích mở mui xe của mình và lái xe trong cả mùa đông
và mùa hè. Vào mùa đông, y mặc một chiếc áo khoác dày và quấn khăn quanh cổ, trong khi vào mùa hè, y đeo kính râm đen và đội mũ lưỡi trai. Vừa
thích thú gạt cần số, vừa di chuyển trên những
con đường nội đô, thư thái ngắm nhìn bầu
tròi trong lúc chờ đèn đỏ. Quan
sát những đám mây đang trôi và những chú chim đậu trên dây thì những khoảnh
khắc đó đã là một phần quan trọng trong cuộc sống của y trong nhiều niên. Iefuku chậm râi đi một vòng quanh chiếc xe và kiểm tra từng chi tiết, giống như một người đang kiểm tra tình trạng của một
con ngựa trước cuộc đua. |
その車を新車で購入したとき、妻はまだ存命だった。ボディーカラーの黄色は彼女が選んだものだ。最初の数年間はよく二人でドライブをした。妻は運転をしなかったので、ハンドルを握るのはいつも家福の役だった。遠出も何度かした。伊豆や箱根や那須に出かけた。しかしそのあとの十年近くはほとんど常に彼一人で乗っていた。妻の死後、何人かの女性と交際したが、彼女たちを助手席に座らせる機会はなぜか一度もなかった。都内から外に足を伸ばすことも、仕事でそうする必要がある場合を別にして、まったくなくなってしまった。 |
Vợ y vẫn còn sống khi y mua nó mới. Màu vàng là sự lựa chọn của nàng. Họ thường xuyên lái xe cùng nhau trong vài niên đầu. Vì vợ không có bằng lái nên Iefuku luôn là
người ngồi sau tay lái. Hai vợ chồng cũng vài lần lái đi chơi xa, đến những
nơi như Izu, Hakone và Nasu. Nhưng
quãng mưòi niên trở về đây thì hầu như chỉ có mình y đi. Sau cái chết của vợ thì y cũng qua lại với
vài phụ nữ nhưng không hiểu sao chưa bao giờ họ có cơ hội để lên ngồi bên
cạnh. Trừ những lúc vì công
việc thì y cũng không còn ra khỏi thành phố. |
「さすがにあちこちに少しずつやれが出てきていますが、まだまだ大丈夫です」と大場は大型犬の首でも撫でるように、ダッシュボードを手のひらで優しくこすりながら言った。「信頼できる車ですよ。この時代のスウェーデン車って、なかなかしっかり作られているんです。電気系統に気を遣う必要はありますが、基本のメカニズムには何ら問題ありません。ずいぶん丁寧に整備をしてきましたしね」 |
“Chỗ này chỗ kia bắt đầu rệu rã rồi nhưng vẫn
còn ổn chán,” Oba nói, nhẹ nhàng xoa cái chắn bùn như thể đang xoa cổ một con
chó to. “Đó là một chiếc xe đáng
tin cậy. Những chiếc xe Thụy Điển có tuổi đời này được chế tạo để tồn tại
lâu dài. Cần phải cẩn thận hệ
thống điện nhưng máy móc về cơ bản thì không có nan đề gì. Tôi bảo dưỡng khá kĩ đấy.” |
家福が必要書類にサインし、請求書の詳細について説明を受けているときに、その娘がやってきた。身長は一六五センチくらいで、太ってはいないが、肩幅は広く、体格はがっしりしていた。右の首筋に大きめのオリーブくらいのサイズの楕円形の紫色のアザがあったが、彼女はそれを外にさらすことにとくに抵抗を感じていないようだった。たっぷりとした真っ黒な髪は邪魔にならないように後ろでまとめられていた。彼女はおそらくどのような見地から見ても美人とは言えなかったし、大場が言ったようにひどく素っ気ない顔をしていた。頰にはにきびのあとが少し残っていた。目は大きく、瞳がくっきりしているが、それはどことなく疑り深そうな色を浮かべていた。目が大きいぶん、その色も濃く見えた。両耳は広く大きく、まるで僻へき地ちに備えられた受信装置のように見えた。五月にしてはいささか厚すぎる、男物のヘリンボーンのジャケットを着て、茶色のコットンパンツをはき、コンバースの黒いスニーカーを履いていた。ジャケットの下は白い長袖のTシャツ、胸はかなり大きい方だ。 |
Cô gái đến trong khi Iefuku đã kí các giấy tờ cần thiết
và được thông báo tóm tắt về các chi tiết của hóa đơn. Cổ cao khoảng 1m65, không mập nhưng bờ vai rộng và vóc dáng rắn rỏi. Bên
gáy phải có một vết sẹo màu tím hình bầu dục to cỡ quả ô liu, song dường như cổ không thấy ngại khi để lộ
nó ra ngoài. Mái tóc dày,
đen nhánh được buộc ra sau cho khỏi vướng.
Nhìn thế nào thì cũng không thể bảo đây là một cô gái đẹp, đúng như Oba đã nói, cổ mang bộ mặt cực kì dửng dưng. Có một chút mụn để lại trên má. Đôi mắt to và đồng tử sáng nhưng thấp thoáng đâu đó vẻ
ngờ vực. Mắt to nên nét ngờ vực trông càng rõ. Hai tai to và bè, trông hệt như máy thu tín hiệu ở vùng sâu
vùng xa. Cổ mặc chiếc áo khoác nam vải Herringbone
hơi quá dày so với thời tiết tháng Năm,
quần cotton màu nâu, xỏ đôi giày hiệu
Converse đen. Dưới lớp áo khoác là áo
thun dài tay màu trắng, và bộ ngực thuộc loại
khá to. |
大場が家福を紹介した。彼女の名前は渡わた利りといった。渡利みさき。 |
Oba giới thiệu Iefuku. Tên của cổ là Watari.
Watari Misaki. |
「みさきは平仮名です。もし必要なら履歴書を用意しますが」、彼女は挑戦的に聞こえなくもない口調でそう言った。 |
“Misaki viết bằng chữ mềm. Nếu anh cần bản lí lịch thì tôi sẽ chuẩn bị,”
cổ nói với giọng đầy thách thức và dễ nghe. |
家福は首を振った。「今のところ履歴書までは必要ない。マニュアル・シフトは運転できるよね?」 |
Iefuku lắc đầu. “Hiện tại tôi không cần sơ yếu lí lịch. Cô có thể lái được xe số sàn đúng không?” |
「マニュアル・シフトは好きです」と彼女は冷ややかな声で言った。まるで筋金入りの菜食主義者がレタスは食べられるかと質問されたときのように。 |
“Tôi thích xe số sàn,” cổ
nói với giọng thờ ơ. Giống như khi một người ăn chay trường được hỏi có ăn
được rau diếp không. |
「古い車だから、ナビもついていないけど」 |
“Nó
là một chiếc xe cũ, nên không có hệ thống định vị.” |
「必要ありません。しばらく宅配便の仕事をしていました。都内の地理は頭に入っています」 |
“Không cần.
Tôi đã làm chuyển phát nhanh một thời gian.
Địa hình thành phố ở
trong đầu tôi rồi.” |
「じゃあ試しにこのあたりを少し運転してくれないかな? 天気が良いから屋根は開けていこう」 |
“Vậy cô lái quanh đây cho tôi xem thử nhé? Hôm
nay trời đẹp nên ta sẽ hạ mui.” |
「どこに行きますか?」 |
“Anh muốn lái đi đâu?” |
家福は少し考えた。今いるところは四の橋の近くだ。「天現寺の交差点を右折して、明治屋の地下の駐車場に車を停め、そこで少しばかり買い物をして、それから有あり栖す川がわ公園の方に坂を上がって、フランス大使館の前を通って明治通りに入る。そしてここに戻る」 |
Iefuku ngẫm nghĩ. Chỗ này gần Shinohashi. “Rẽ phải ở ngã tư Tengenji, đậu xe ở bãi đậu xe ngầm ở siêu thị Meijiya,
vào đó mua sắm một lát
rồi lên dốc theo hướng công viên Arisugavva, đi qua Đại sứ quán Pháp, vào
đường Meiji. Sau đó quay về đây.” |
「わかりました」と彼女は言った。いちいち道順の確認もしなかった。そして大場から車のキーを受け取ると、座席の位置とミラーを手早く調整した。どこにどんなスイッチがあるのか、彼女はすべて承知しているようだった。クラッチを踏み、ギアをひととおり試した。ジャケットの胸のポケットからレイバンの緑色のサングラスを出してかけた。それから家福に向かって小さく肯うなずいた。用意は整ったということだ。 |
“Tôi
hiểu rồi,” cổ nói. Không
hề xác nhận lại thứ tự từng chặng.
Sau đó cổ nhận chìa khóa xe từ Oba,
mau mắn chỉnh lại ghế và gương.
Có vẻ như cổ biết rõ ở đâu có nút gì.
Cổ đạp côn, kiểm tra tất cả các số. Cổ rút từ túi ngực áo khoác chiếc kính
Ray-ban màu xanh lá cây và đeo lên mắt.
Cuối cùng cổ quay sang Iefuku,
khẽ gật đầu. Ngụ ý rằng đã chuẩn bị
xong. |
「カセットテープ」と彼女はオーディオを見て独り言のように言った。 |
“Băng
cassette,” cổ
nói với chính mình khi nhìn thấy máy nghe nhạc. |
「カセットテープが好きなんだ」と家福は言った。「CDなんかより扱いやすい。台詞せりふの練習もできる」 |
“Tôi
thích những cuốn băng cassette,” Iefuku
nói. “Nó dễ xử lí hơn đĩa CD. Tôi sử dụng
chúng để tập dượt lời thoại của mình.” |
「ひさしぶりに見ました」 |
“Lâu lắm rồi tôi mới nhìn thấy.” |
「僕が運転を始めた頃はエイトトラックだった」と家福は言った。 |
“Hồi tôi mới bắt đầu lái xe thì vẫn còn dùng
loại eight-track,” Iefuku nói. |
みさきは何も言わなかったが、どうやら表情からするとエイトトラックがどんなものかも知らないらしかった。 |
Misaki không nói gì nhưng
qua nét mặt thì có thể đoán cổ không biết eight-track là loại băng thế nào. |
大場の保証したとおり、彼女は優秀なドライバーだった。運転操作は常に滑なめらかで、ぎくしゃくしたところはまるでなかった。道路は混んでいて、信号待ちをすることも多かったが、彼女はエンジンの回転数を一定に保つことを心がけているようだった。視線の動きを見ているとそれがわかった。しかしいったん目を閉じると、シフトチェンジが繰り返されていることは、家福にはほとんど感知できなかった。エンジンの音の変化に耳を澄ませて、ようやくギア比の違いがわかるくらいだ。アクセルやブレーキの踏み方も柔らかく注意深かった。また何よりありがたかったのは、その娘が終始リラックスして運転していることだった。彼女は車を運転していないときより、むしろ運転をしているときの方が緊張がうまくとれるらしかった。その表情の素っ気なさは薄らぎ、目つきもいくらか温和になっていた。ただ口数が少ないことには変わりない。質問されない限り、口を開こうとはしない。 |
Đúng như lời cam đoan của
Oba, cổ là một tài xế xuất
sắc. Mọi thao tác đều rất êm
ái, không bị giật cục. Tuy đường đông, lại nhiều đèn đỏ nhưng dường như cổ vẫn tập trung vào việc sang số một cách nhịp nhàng. Chuyển động của đôi mắt của cổ nói với y điều đó. Tuy nhiên, khi Iefuku nhắm mắt lại
thì y khó có thể phát hiện ra cần số đang đưa đi đưa lại. Đến
nỗi y phải cố lắng nghe sự thay đổi của động cơ thì mới biết xe đang ở hộp số nào. Cổ chạm chân vào bàn đạp phanh và chân ga rất nhẹ nhàng và cẩn thận. Hơn hết, cổ hoàn toàn
thoải mái. Trên thực tế, cổ có vẻ thoải mái hơn khi lái xe. Vẻ mặt thẳng
thừng, ngang tàng của cổ trở nên nhẹ nhàng hơn, và đôi mắt của cổ dịu dàng hơn. Duy sự kiệm lời là không
thay đổi. Nếu không bị hỏi thì cổ
sẽ không mở miệng. |
しかし家福はそのことをとくに気にしなかった。彼も日常的に会話をすることがあまり得意ではない。気心の知れた相手と中身のある会話をするのは嫌いではないが、そうでなければむしろ黙っていられた方がありがたい。彼は助手席に身を沈め、通り過ぎていく街の風景をぼんやりと眺めていた。いつも運転席でハンドルを握っていた彼にとって、そういう視点から眺める街の風景は新鮮に感じられた。 |
Nhưng Iefuku không thực sự quan tâm đến điều đó. Y cũng không giỏi lắm trong việc nói chuyện hàng ngày. Y
không ghét những cuộc chuyện trò có nội dung với đối tượng là người thân
thiết, nhưng nếu không phải vậy
thì y thích được im lặng hơn. Y thả lỏng người trên ghế, lơ đãng ngắm cảnh đường phố lướt qua. Với một kẻ lúc nào cũng cầm vô lăng ngồi ở
ghế lái như y thì cảnh đường phố lúc này thật mới mẻ. |
交通量の多い外苑西通りで、試しに何度か縦列駐車をさせてみたが、彼女は要領よく的確にそれをこなした。勘の良い娘だ。運動神経も優れている。彼女は長い信号待ちのあいだに煙草を吸った。マールボロが好みのブランドであるようだった。信号が青に変わるとすぐに煙草を消した。運転をしているあいだは煙草は吸わない。吸い殻には口紅はついていなかった。爪のマニキュアもない。化粧というものをほとんどしていないようだ。 |
Đến đường Gaiennishi đông
đúc, y yêu cầu cổ đậu xe song
song vài lần để thử tay nghề,
lần nào cổ cũng đỗ khéo léo và chuẩn xác. Một
cô gái có trực giác tốt. Dây thần kinh vận động
cũng thuộc hàng ưu việt. Những lúc chờ đèn đỏ lâu
thì cổ thường hút thuốc. Marlboro dường như là thương hiệu ưa thích
của cổ. Ngay khi đèn giao thông chuyển sang màu xanh thì cổ tắt thuốc. Đầu
mẩu thuốc không dính son.
Móng tay cũng không sơn. Hầu như không có thứ gì
được gọi là trang điểm. |
「訊いておきたいことがいくつかあるんだけど」と家福は有栖川公園のあたりで言った。 |
“Tôi
có một số câu hỏi muốn hỏi,” Iefuku lên tiếng khi đang ở gần Công viên Arisugawa. |
「訊いて下さい」と渡利みさきは言った。 |
“Anh hỏi đi,” Misaki Watari nói. |
「運転はどこで身につけたの?」 |
“Cô
học lái xe ở đâu?” |
「北海道の山の中で育ちました。十代半ばから車を運転しています。車がなければ生活できないようなところです。谷間にある町で、あまり日も射さず、一年の半分近く道路は凍結しています。運転の腕はいやでも良くなります」 |
“Tôi
lớn lên ở vùng núi Hokkaido. Tôi đã lái ô tô từ khi ở
tuổi thiếu niên. Đó là nơi mà không thể sống nếu không có ô tô.
Một thị trấn trong
hẻm núi, chẳng mấy khi thấy ánh mặt trời, gần nửa thời gian trong niên đường sá bị đóng băng. Dù không muốn thì cũng phải lái xe thành thạo.” |
「でも山の中で縦列駐車の練習はできないだろう」 |
“Nhưng
sẽ không thể thực hành đậu xe song song trên núi.” |
彼女はそれには返事をしなかった。答える必要もない愚問だということなのだろう。 |
Cổ không trả lời. Hẳn
cổ cho đó là một câu hỏi ngớ ngẩn không cần trả lời. |
「急に運転手が必要になった事情は、大場さんから聞いているかな?」 |
“Cô
đã nghe ông Oba nói về việc tôi cần một tài xế gấp chứ?” |
みさきはまっすぐ正面を見つめながらアクセントの乏しい声で言った。「家福さんは俳優で、今は週に六日、舞台に出演しています。自分で車を運転してそこに行きます。地下鉄もタクシーも好きじゃない。車の中で台詞の練習をしたいから。でもこのあいだ接触事故を起こし、免許証も停止になった。お酒が少し入っていたことと、それから視力に問題があったためです」 |
Mắt vẫn nhìn thẳng, Misaki nói bằng giọng thiếu trọng âm. “Anh Iefuku là một diễn viên, một tuần diễn ở sân khấu kịch sáu ngày. Tự lái xe đi diễn. Không thích tàu
điện ngầm lẫn taxi. Bởi muốn luyện lời thoại trong xe. Nhưng vừa rồi do gây ra một vụ va chạm cho nên bị treo bằng
lái. Nguyên nhân là trong người có chút men, cộng thêm thị lực có nan đề.” |
家福は肯いた。なんだか他人が見た夢の話を聞いているみたいだ。 |
Iefuku gật đầu.
Cứ như thể y đang nghe người khác kể về giấc chiêm bao của họ. |
「警察の指定した眼科医の検査を受けたら、緑内障の徴候が見つかった。視野にブラインドスポットがあるらしい。右の隅の方に。それまではまったく気づかなかったんだが」 |
“Tôi đi khám ở một bác sĩ nhãn khoa do cảnh sát
chỉ định và phát hiện có triệu chứng của bệnh cườm nước. Trong tầm nhìn có
điểm mù. Ở góc bên phải. Trước đó tôi không hề nhận ra.” |
飲酒運転については、アルコールの量もそれほど多くなかったので、内々に収めることができた。マスコミにも洩れないようにした。しかし視力の問題については事務所も見過ごすわけにはいかなかった。今のままだと、右側後方から近づいて来る車が死角に入って見えない可能性がある。再検査して良い結果が出るまでは絶対に自分で運転はしないでくれと申し渡されていた。 |
Chuyện uống rượu lúc lái
xe, đã được thu xếp êm xuôi
do lượng cồn không đáng kể.
Giới truyền thông cũng không được biết.
Nhưng chuyện thị lực thì văn phòng quản lí của y không thể cho qua. Tuy nhiên, văn phòng cũng không thể coi thường nan đề về thị lực. Cứ
để vậy thì có khả năng y sẽ không nhìn thấy xe đi lại từ phía sau bên phải do
rơi vào đúng góc chết. Trước khi có kết quả khả
quan của lần tái khám tới thì y bị yêu cầu tuyệt đối không được tự lái xe. |
「家福さん」とみさきは質問した。「家福さんと呼んでいいですか? 本名なんですか?」 |
“Anh Iefuku,” Misaki hỏi. “Tôi có thể gọi anh là anh Iefuku được không? Có phải tên thật
của anh không?” |
「本名だよ」と家福は言った。「縁起の良さそうな名前だけど、どうやら御ご利り益やくはないみたいだ。うちの親戚には金持ちと呼べる人間は一人もいないからね」 |
“Đó
là tên họ của tôi,” Iefuku nói. “Nó có nghĩa là may mắn, nhưng nó dường như không phải thế, bởi
không ai trong số họ hàng của tôi có thể được gọi là giàu có.” |
しばらく沈黙があった。それから家福は、専属の運転手として彼女に支払うことのできる一月ぶんの給料の額を告げた。大した額ではない。しかしそれが家福の属する事務所から支出できる限度だった。家福の名前はある程度世間で知られているが、映画やテレビで主役をはれる俳優ではないし、舞台で稼げる金は限られている。彼クラスの俳優にとっては、何ヶ月かの限定とはいえ、専用の運転手をつけること自体が例外的な贅沢なのだ。 |
Một thoáng im lặng. Sau đó Iefuku thông báo khoản
lương tháng có thể trả cho cổ trong vai trò lái xe riêng. Số
tiền không nhiều. Nhưng đó là mức cao nhất
mà văn phòng quản lí của Iefuku có thể chi trả. Mặc
dù tên tuổi của Iefuku đã được biết đến ở một mức độ nào đó, nhưng y không phải là một diễn viên có thể đóng vai
chính trong phim điện ảnh và truyền hình, và số tiền y có thể kiếm được trên sân khấu là rất hạn
chế. Hạng diễn viên như y thì việc có lái xe
riêng, dù chỉ trong vài tháng, là một ngoại lệ xa xỉ. |
「勤務時間はスケジュール次第で変わってくるけれど、ここのところは舞台が中心だから、基本的に午前中には仕事はない。昼までは寝ていられる。夜は遅くても十一時にはあがれるようにする。もっと遅い時間に車が必要な場合はタクシーを使う。週に一日は休みをあげられるようにする」 |
“Thời gian làm việc thay đổi tùy theo lịch của
tôi, tuy nhiên hiện tại tôi chủ yếu diễn ở sân khấu kịch nên về cơ bản cô
không phải làm buổi sáng. Cô có thể ngủ đến trưa. Tôi sẽ để cô về muộn nhất
là mười một giờ đêm. Nếu muộn hơn thì tôi sẽ đi taxi. Tôi sẽ để cô nghỉ một
tuần một ngày.” |
「それでけっこうです」とみさきはごくあっさりと言った。 |
“Tốt
thôi,” Misaki
đáp với giọng vô cùng dửng dưng. |
「仕事自体はそれほど重労働じゃないと思う。きついのはむしろ何もしないで待機している時間かもしれない」 |
“Tôi nghĩ công việc không có gì nặng nhọc cả. Có
lẽ khổ nhất đó là lúc chờ đợi, vì chẳng có việc gì để làm.” |
みさきはそれについては何も言わなかった。ただ唇をまっすぐに結んでいた。そんなものよりきついことは、これまで山ほど経験してきたという顔つきだった。 |
Misaki không nói gì.
Cổ chỉ bặm môi, vẻ mặt như muốn bảo rằng
tôi đã trải qua vô khối chuyện còn khổ hơn thế nhiều. |
「屋根を開けているときに煙草を吸うのはかまわない。でも屋根を閉じているときには吸わないでほしい」と家福は言った。 |
“Khi xe hạ mui thì cô có thể hút thuốc. Nhưng
khi mui đóng thì mong cô đừng hút,” Iefuku nói. |
「わかりました」 |
“Tôi hiểu rồi.” |
「何かそちらの希望は?」 |
“Cô có mong muốn gì không?” |
「とくにありません」。彼女は眼を細め、ゆっくり息を吸い込みながらシフトダウンをした。そして言った。「この車が気に入ったから」 |
“Không
gì đặc biệt.” Cổ
nheo mắt, hít thở từ từ rồi sang
số. Sau đó cổ nói: “Tôi thích chiếc xe này.” |
そのあとの時間を二人は無言のうちに送った。修理工場に戻り、家福は大場を脇に呼んで「彼女を雇うことにするよ」と告げた。 |
Khoảng thời gian sau đó
giữa hai người trôi qua trong im lặng.
Về tới xưởng, Iefuku kéo Oba ra một
góc và thông báo: “Tôi sẽ thuê cổ.” |
|
|
翌日からみさきは家福の専属運転手となった。午後の三時半に彼女は恵比寿にある家福のマンションにやってきて、地下の駐車場から黄色いサーブを出し、彼を銀座にある劇場まで送り届けた。雨が降っていなければ、屋根は開けたままにしておいた。行きの道、家福はいつも助手席でカセットテープを聴きながら、それにあわせて台詞を読み上げた。明治時代の日本に舞台を移して翻案したアントン・チェーホフの『ヴァーニャ伯父』だ。彼がヴァーニャ伯父の役をつとめていた。すべての台詞を完璧に暗記していたが、それでも気持ちを落ち着けるために日々台詞を復唱する必要があった。それが長いあいだの習慣になっていた。 |
Từ hôm sau, Misaki trở thành lái xe riêng của Iefuku. Ba rưỡi chiều, cổ đến chung cư của Iefuku ở Ebisu, đưa chiếc Saab màu vàng từ hầm lên, chở y tới nhà hát ở Ginza. Nếu
trời không mưa thì cổ hạ sẵn mui.
Trên đường đi, lúc nào Iefuku cũng nghe
băng và đọc lời thoại theo băng ở ghế hành khách. Đó
là vở “Chú Vanya” của Anton
Chekhov, được cải biên với bối cảnh là Nhật Bản thời Minh Trị. Y đang đóng vai Chú Vanya. Y ghi nhớ tất cả các câu thoại một cách hoàn hảo, nhưng y vẫn phải lặp lại chúng hàng ngày để có được sự bình tĩnh. Đã thành thói quen từ lâu. |
帰り道ではよくベートーヴェンの弦楽四重奏曲を聴いた。彼がベートーヴェンの弦楽四重奏曲を好むのは、それが基本的に聴き飽きしない音楽であり、しかも聴きながら考え事をするのに、あるいはまったく何も考えないことに、適しているからだった。もっと軽い音楽を聴きたいときには、古いアメリカン・ロックを聴いた。ビーチ・ボーイズやラスカルズやクリーデンス、テンプテーションズ。家福が若い頃に流行った音楽だ。みさきは家福のかける音楽についてはとくに感想を言わなかった。彼女がそれらの音楽を好んでいるのか、苦痛に思っているのか、あるいはまったく何も聞こえていないのか、家福にはどれとも判断できなかった。感情の動きが表に出てこない娘なのだ。 |
Trên đường về nhà, y thường nghe bản tứ tấu đàn dây của Beethoven. Y thích tứ tấu đàn dây của Beethoven vì nó về cơ bản
là thứ âm nhạc mà y không bao giờ cảm thấy chán,
thêm nữa còn rất phù họp khi vừa nghe vừa suy nghĩ, hoặc nghe mà chẳng cần suy nghĩ gì. Khi y muốn nghe nhạc nhẹ hơn thì y nghe nhạc rock cổ của
Mỹ. Beach Boys, Rascals, Credence, The Temptations. Đó là thứ âm nhạc thịnh hành khi Iefuku còn nhỏ. Misaki không nói gì về những bản nhạc mà Iefuku bật. Iefuku không thể biết liệu âm nhạc của y có làm hài lòng hay làm nhức đầu cổ, hay cổ chẳng lắng nghe gì cả. Cổ là một cô gái mà cảm xúc không lộ ra. |
普通ならそばに誰かがいると緊張して、声に出して台詞を練習することなんてとてもできないのだが、みさきに関してはその存在が気にならなかった。そういう意味では、彼女の無表情で素っ気ないところが、家福にはありがたかった。彼が隣でどんな大きな声で台詞を口にしようと、彼女はまるで何も耳に入っていないように振る舞った。あるいは実際に何も耳に入っていなかったのかもしれない。彼女はいつも運転に神経を集中していた。あるいは運転によってもたらされる特殊な禅の境地にひたっていた。 |
Bình thường, hễ
có ai bên cạnh là y thấy căng thẳng,
không luyện thoại được thành tiếng,
nhưng với Misaki thì sự hiện diện của cổ không hề khiến y bận tâm. Xét
theo nghĩa này, Iefuku lại thấy biết ơn trước sự dửng dưng vô cảm
của cổ. Bất kể y luyện thoại to
tới cỡ nào thì cổ cũng làm như thể chẳng nghe thấy. Mà
có khi cổ không nghe thấy gì thật.
Thần kinh cổ luôn hướng trọn vào việc lái xe. Hoặc cổ đã đắm chìm trong một lãnh địa Thiền đặc biệt
do việc lái xe mang lại. |
みさきが自分のことを個人的にどう思っているのか、家福にはそれも見当がつかない。少しくらいは好意を抱いているのか、まったく何の興味も関心も持っていないのか、あるいは虫ずが走るほど嫌なのだが、ただ仕事がほしくて我慢しているだけなのか、それすらわからない。しかしどう思われていようと、家福にはとくに気にならなかった。彼はその娘の滑らかで確実な運転が気に入っていたし、余計なことを言わず、感情を表に出さないところも気に入っていた。 |
Iefuku chẳng biết Misaki nghĩ về y là một người như thế nào. Liệu
cổ có thiện cảm hay là dửng dưng chẳng ấn tượng gì. Hoặc có khi phát ớn lên rồi nhưng vì miếng
cơm manh áo mà chịu đựng. Nhưng dù cổ nghĩ thế nào
thì Iefuku cũng chẳng bận tâm. Y
thích kiểu lái xe êm và chắc tay của cổ, và cũng thích việc cổ không nói gì thêm và không để lộ
cảm xúc. |
舞台が終わると家福はすぐに舞台化粧を落とし、服を着替え、速すみやかに劇場をあとにする。ぐずぐず居残っているのは好きではない。役者同士の個人的なつきあいもほとんどない。携帯電話でみさきに連絡を取り、楽屋口に車をまわしてもらう。彼がそこにいくと、黄色いサーブ・コンバーティブルが待っていた。そして十時半過ぎには恵比寿のマンションに戻る。それがほぼ毎日繰り返された。 |
Diễn xong, Iefuku lập tức tẩy trang, thay quần áo và nhanh chóng rời khỏi nhà
hát. Y không thích cà kê ở
lại. Y hầu như chẳng giao du với bạn diễn. Y liên lạc với Misaki qua
di động, bảo cổ đánh xe đến trước
cửa phòng hóa trang. Ra đến nơi thì y đã thấy
chiếc Saab mui trần màu vàng chờ sẵn.
Khoảng hơn mười rưỡi thì xe về tới chung cư ở Ebisu. Việc này hầu như lặp lại hằng ngày. |
それ以外の仕事が入ることもある。テレビの連続ドラマの収録のために、週に一度は都内のテレビ局に出向かなくてはならなかった。平凡な刑事物のドラマだが、視聴率は高かったし、ギャラもよかった。彼は主人公の女刑事を助ける易者の役だった。その役になりきるために彼は変装して実際に何度も街に出て、本物の易者として通りがかりの人々の占いをした。よくあたるという評判まで立った。夕方までにその収録を終え、その足で急いで銀座の劇場に向かう。この部分がいちばんリスキーだ。週末にはマチネーを終えたあと、俳優の養成学校で演技の夜のクラスを受け持った。家福は若い人々を指導するのが好きだった。そういう送り迎えもすべて彼女がおこなった。みさきは何の問題もなく、予定通りに彼をあちこちの場所に送り届け、家福も彼女の運転するサーブの助手席に座っていることに慣れていった。時には深く眠り込むことさえあった。 |
Y cũng có những công việc khác.
Để ghi hình cho bộ phim truyền hình dài tập thì mỗi tuần một lần y phải đến
đài truyền hình trong thành phố. Đó là một bộ phim hình sự tầm thường, nhưng tỉ suất người xem cao và thù lao cũng hậu hĩnh. Y
vào vai ông thầy bói giúp đỡ nhân vật chính là một nữ điều tra viên. Để hoàn thành vai diễn, y nhiều lần cải trang, đi ra đường và xem bói cho người qua đường
như một thầy bói thực thụ.
Thậm chí y còn được khen là xem đúng.
Sẩm tối, sau khi ghi hình xong
thì y phải tới ngay nhà hát ở Ginza. Đó
là phần đầy rủi ro. Vào những dịp cuối tuần, sau khi kết thúc suất diễn chiều, thì y có một lớp dạy diễn xuất vào buổi
tối ở trường bồi dưỡng diễn viên. Iefuku
thích công việc hướng dẫn các bạn trẻ.
Việc đón đưa đều do Misaki đảm nhận.
Cổ đưa y đến từng địa điểm theo kế hoạch mà không để xảy ra chuyện gì, bản thân Iefuku cũng dần quen với việc
ngồi ở ghế hành khách của chiếc Saab do cổ cầm lái. Thi thoảng y còn ngủ li bì trong xe. |
気候が暖かくなると、みさきはヘリンボーンの男物のジャケットを脱いで、薄手の夏物のジャケットに替えた。運転するときには、彼女は常に必ずどちらかのジャケットを着用した。たぶん運転手の制服のかわりなのだろう。梅雨の季節になり、車の屋根が閉められることが多くなってきた。 |
Khi thời tiết ấm lên, Misaki thay chiếc áo khoác
xương cá của mình bằng một chiếc áo khoác mùa hè nhẹ nhàng hơn. Cổ luôn mặc áo khoác khi làm việc. Có lẽ nó
tương đương với đồng phục của tài xế riêng.
Vào mùa mưa thì mui xe thường xuyên phải đóng kín. |
家福は助手席に座っているとき、亡くなった妻のことをよく考えた。みさきが運転手を務めるようになって以来、なぜか頻繁に妻のことを思い出すようになった。妻もやはり女優で、彼より二つ年下、美しい顔立ちの女だった。家福はいちおう「性格俳優」ということになっていたし、入ってくる役もいくぶん癖のある脇役であることが多かった。顔はいささか細長すぎるし、髪は若いうちからもう薄くなり始めていた。主役には向かない。それに比べると妻は正統的な美人女優だったし、与えられる役も収入も、それに相応ふさわしいものだった。しかし年齢を重ねるにつれて、彼の方がむしろ個性的な演技派の俳優として、世間で高く評価されるようになっていった。それでも二人はお互いのポジションを認め合っていたし、人気や収入の違いが彼らのあいだで問題になることは一度もなかった。 |
Khi ngồi ở ghế hành khách, Iefuku
thường nghĩ về người vợ đã khuất của mình. Kể từ khi Misaki trở thành tài xế thì y thường xuyên
nhớ đến vợ mình vì một lí do nào đó. Vợ y cũng là một nữ diễn viên, kém y hai tuổi và là một phụ nữ có khuôn mặt xinh đẹp. Iefuku được cho là một “diễn viên nhân vật”, và những vai diễn thường là những vai phụ kì quặc theo cách này hoặc cách khác. Y có một khuôn mặt dài và hẹp, và đã bắt đầu bị hói khi vẫn còn khá trẻ. Không phù hợp với vai chính. Ngược
lại, vợ y là một diễn viên có
vẻ đẹp chuẩn mực, vai diễn cũng như thu
nhập nàng nhận được hoàn toàn tương xứng với vẻ đẹp đó. Nhưng
khi họ có tuổi hơn thì y càng được giới mộ điệu đánh giá là một diễn viên có
lối diễn xuất khá độc đáo. Tuy
nhiên, cả hai đều thừa nhận vị trí của nhau, và sự khác biệt về mức độ nổi tiếng và thu nhập không
bao giờ trở thành nan
đề giữa hai người. |
家福は彼女を愛していた。最初に会ったときから(彼は二十九歳だった)強く心を惹かれたし、妻が死ぬまで(彼はそのとき四十九歳になっていた)気持ちは変わらなかった。結婚している間、妻以外の女と寝たことは一度もない。そういう機会もなくはなかったが、とくにそうしたいという気持ちは起きなかった。 |
Iefuku thương ái nàng. Ngay từ lần đầu gặp mặt (y 29 tuổi) thì y đã bị cuốn hút mạnh mẽ, và cho đến khi vợ y mất (lúc đó y 49 tuổi) thì tình cảm ấy vẫn không suy
suyển. Y đã không
ngủ với một người phụ nữ nào khác trong suốt những niên chung sống của họ. Sự thôi thúc chưa bao giờ xuất hiện, mặc dù y đã nhận được phần lớn cơ hội của mình. |
しかし妻の方は時折、彼以外の男と寝ていた。家福にわかっている限りでは、その相手は全部で四人だった。少なくとも定期的に彼女が性的な関係を持った相手が四人いたということだ。妻はもちろんそんなことはおくびにも出さなかったが、彼女がほかの男にほかの場所で抱かれていることは、彼にはすぐにわかった。家福はそういう勘がもともといい方だったし、相手を真剣に愛していればそれくらいの気配はいやでも感じ取れる。相手が誰なのかも、彼女の話の口調から簡単にわかった。彼女が寝る相手は決まって映画で共演する俳優だった。それも年下の場合が多かった。映画の撮影が続いている何ヶ月かのあいだ関係が続き、撮影が終わるとだいたいそれにあわせて自然に消滅するようだった。同じことが同じパターンで四度繰り返された。 |
Nhưng vợ y thì thỉnh thoảng có ngủ với những người đàn ông
khác ngoài y. Theo như Iefuku biết thì có tất cả bốn người. Nghĩa
là ít nhất có bốn đối tượng nàng có quan hệ tình dục định kì. Đương
nhiên vợ y không hé răng nửa lời về chuyện này song việc nàng được kẻ khác ôm
ấp ở một nơi khác thì y đánh hơi được ngay.
Trực giác của Iefuku vốn nhạy với những chuyện như thế, vả lại nếu thương ái ai đó nghiêm túc thì ta
sẽ cảm nhận được dấu hiệu ấy dù không muốn. Y
dễ dàng biết được kẻ đó là ai qua cách nàng nói chuyện. Luôn luôn, họ là những diễn viên đồng nghiệp làm việc trên cùng một bộ phim. Hầu hết đều
trẻ hơn. Mối quan hệ thường tiếp tục trong vài
tháng họ khi đang quay một bộ phim và chết một cách tự nhiên khi quá trình
quay phim dừng lại. Một sự việc được lặp lại bốn lần với cùng
một khuôn mẫu. |
どうして彼女が他の男たちと寝なくてはならないのか、家福にはよく理解できなかった。そして今でも理解できていない。二人は結婚して以来、夫婦としてまた生活のパートナーとして、良好な関係を常に保っていたからだ。暇があればいろんなことを熱心に正直に語り合ったし、お互いを信頼しようと努めてきた。自分たちは精神的にも性的にも相性が良いと、彼は思っていた。周りの人々も彼らを仲の良い理想的なカップルとして見ていた。 |
Iefuku đã chẳng hiểu tại sao nàng lại cảm thấy cần phải ngủ với những
người đàn ông khác. Đến tận bây giờ y cũng chưa lí giải được. Mối quan hệ
của họ như một cặp vợ chồng và như những người bạn đời của nhau thì đã rất
tuyệt vời ngay từ đầu. Mỗi khi rảnh rỗi thì cả
hai lại nói chuyện với sự say mê và trung thực về
nhiều chủ đề khác nhau, và cố gắng tin tưởng lẫn nhau. Y đã nghĩ rằng
vợ chồng y là một cặp tương thích nhất, cả về tinh
thần lẫn tình dục. Mọi người xung quanh
cũng xem họ là một cặp đôi lí tưởng,
thuận hòa. |
それなのになぜ他の男たちと寝たりしたのか、その理由を妻が生きているうちに思い切って聞いておけばよかった。彼はよくそう考える。実際にその質問をもう少しで口にしかけたこともあった。君はいったい彼らに何を求めていたんだ? 僕にいったい何が足りなかったんだ? 彼女が亡くなる数ヶ月前のことだ。しかし激しい苦痛に苛さいなまれながら死と闘っている妻に向かって、そんなことはやはり口にできなかった。そして彼女は何ひとつ説明しないまま、家福の住む世界から消えていった。なされなかった質問と、与えられなかった回答。彼は火葬場で妻の骨を拾いながら、無言のうちに深くそのことを考えていた。誰かが耳元で語りかける声も聞こえないくらい深く。 |
Tuy nhiên, lẽ ra y phải dám hỏi tại sao nàng lại ngủ với những
người đàn ông khác trong khi vợ y còn sống. Y thường nghĩ như vậy. Trên thực tế, y gần như đã đề cập đến câu hỏi. Em đang tìm kiếm cái quái gì từ họ? Rốt cuộc anh thiếu cái quái
gì vậy? Đó là một vài tháng trước khi nàng chết. Tuy nhiên, một điều như vậy vẫn không thể được đề cập đến nơi người
vợ đang chiến đấu với cái chết trong khi bị hành hạ bởi cơn đau dữ dội. Và, nàng
biến mất khỏi thế giới nơi Iefuku sống mà không giải thích bất cứ điều gì. Những câu hỏi không được đưa ra và câu trả lời không
được nhận. Y suy nghĩ về nó một cách lặng lẽ và sâu sắc, khi nhặt tro cốt của vợ
mình tại nhà hỏa táng. Sâu đến nỗi y không thể nghe thấy bất cứ
ai nói vào tai y. |
妻が他の男の腕に抱かれている様子を想像するのは、家福にとってもちろんつらいことだった。つらくないわけはない。目を閉じるとあれこれと具体的なイメージが頭に浮かんでは消えた。そんなことを想像したくはなかったが、想像しないわけにいかなかった。想像は鋭利な刃物のように、時間をかけて容赦なく彼を切り刻んだ。何も知らないでいられたらどんなによかっただろうと思うこともあった。しかしどのような場合にあっても、知は無知に勝るというのが彼の基本的な考え方であり、生きる姿勢だった。たとえどんな激しい苦痛がもたらされるにせよ、おれはそれを知らなくてはならない。知ることによってのみ、人は強くなることができるのだから。 |
Không cần phải nói thì hình ảnh vợ mình trong vòng tay của một người đàn
ông khác đã khiến Iefuku đau đớn. Làm
gì có chuyện không đau. Hễ nhắm mắt là những
hình ảnh rõ mồn một ấy lại chập chờn trong đầu. Y
không muốn tưởng tượng nhưng lại không thể không tưởng tượng. Trí
tưởng tượng như một con dao sắc bén, cứa vào y không thương tiếc theo thời gian. Đã
có lúc y nghĩ giá như mình không biết gì. Tuy nhiên, y tiếp tục quay trở về nguyên tắc cốt lõi
của y rằng trong mọi tình huống thì kiến thức là tốt hơn sự kém hiểu biết. Tuy nhiên đau đớn thay, nó là cần
thiết để đối đầu với sự thật. Chỉ thông qua sự hiểu biết, một người mới có thể trở nên mạnh mẽ. |
しかし想像することにも増して苦しいのは、妻の抱えている秘密を知りつつ、自分がそれを知っていることを相手に悟られないように、普通に生活を送ることだった。胸を激しく引き裂かれ、内側に目に見えない血を流しながら、顔にいつも穏やかな微笑みを浮かべていること。何ごともなかったように日常的な雑事をこなし、何気ない会話を交わし、ベッドの中で妻を抱くこと。おそらく普通の生身の人間にできることではない。でも家福はプロの俳優だった。生身を離れ、演技をまっとうするのが彼の生なり業わいだ。そして彼は精いっぱい演技をした。観客のいない演技を。 |
Tuy nhiên, đau đớn hơn cả
những gì y tưởng
tượng đó là dù biết bí mật của vợ nhưng y vẫn phải sống như bình thường để vợ
không nhận ra rằng y đã biết chuyện. Bình thản mỉm cười khi trái tim y đang bị xé nát và
bên trong và đang rỉ máu. Cư xử
như thể mọi thứ vẫn ổn trong khi cả hai cùng lo việc nhà hàng ngày, và trò chuyện, làm tình vào ban đêm. Đây không phải là thứ mà một người bình thường có thể
làm được. Nhưng Iefuku là một diễn viên chuyên nghiệp. Rũ bỏ bản thân, bằng xương bằng thịt của mình, để hóa thân vào vai diễn là kế sinh nhai của y. Và y đã ôm lấy vai diễn này bằng tất cả sức lực của
mình. Một vai diễn được thực hiện mà không có
khán giả. |
しかしそれさえ別にすれば──彼女が時折ほかの男に隠れて抱かれているという事実を除外すれば──二人はほぼ満ち足りた、波乱のない結婚生活を送っていた。どちらも仕事の面では順調だったし、経済的にも安定していた。二十年近くの結婚生活を通して、彼らは数え切れないほど多くのセックスをしたが、少なくとも家福の観点からすれば、それは満足のいくものだった。妻が子宮癌を患って、あっという間に亡くなったあと、彼は何人かの女性たちとめぐり逢い、その流れの中でベッドを共にした。しかし妻との交わりで感じたような親密な喜びを、彼はそこに見いだすことはできなかった。あるのは、以前に経験したものごとをもう一度なぞっているような、マイルドな既視感だけだった。 |
Nhưng nếu không tính đến
chuyện này – nghĩa là nếu gạt sang một
bên sự thật là vợ y thi thoảng lén lút ngủ với người khác – thì hai người đã có một cuộc hôn nhân êm
đềm, viên mãn. Cả hai đều tốt về công việc và ổn định về tài chính. Trong suốt gần hai thập kỉ của cuộc hôn nhân, họ đã có vô số lần quan hệ tình dục, nhưng
ít ra theo quan điểm của Iefuku thì chuyện đó đem lại thỏa mãn. Sau khi vợ y bị ung thư tử cung và mất sau đó không lâu
thì y đã gặp vài phụ nữ, theo đà thì cũng đã lên giường với họ. Song
y không tìm được niềm hân hoan khăng khít từng có như khi giao hoan cùng vợ. Chỉ là cảm giác ngờ ngợ, tựa như đang lần theo cái thứ mà mình đã
từng trải qua trước đây. |
|
|
彼の所属する事務所が、給与支払いのための正式の書式を必要としていたので、みさきに現住所と本籍地と生年月日と運転免許証番号を書いてもらった。彼女は北区赤羽のアパートに住んでおり、本籍地は北海道**郡上かみ十じゆう二に滝たき町、二十四歳になったばかりだった。上十二滝町というのが北海道のどのへんにあるのか、どれほどの大きさの町なのか、そこにどんな人々が住んでいるのか、家福には見当もつかない。しかし二十四歳というところが胸にひっかかった。 |
Văn phòng quản lí của y
cần hồ sơ chính thức để trả lương nên y bảo Misaki viết cho y địa chỉ, nguyên quán,
ngày tháng niên sinh, số bằng lái. Cổ đang sống tại căn hộ ở Akabane, quận Kita,
nguyên quán là thị trấn Junitakicho,
quận X, tỉnh Hokkaido, vừa tròn hai mươi tư tuổi. Iefuku không hình dung được thị trấn Junitakicho
nằm chỗ nào ở Hokkaido, lớn đến đâu, những ai đang sống ở đó. Nhưng việc cổ hai mươi tư tuổi thì khiến y
chú ý. |
家福には三日だけ生きた子供がいた。女の子だったが、三日目の夜中に病院の新生児室で死んだ。前触れもなく突然、心臓が動きを止めてしまったのだ。夜が明けたとき、赤ん坊は既に死亡していた。心臓の弁に生まれつき問題があったというのが病院側の説明だった。しかしそんなことはこちらで確かめようもない。また本当の原因がわかったところで、それで子供が生き返るわけでもない。幸か不幸か、名前はまだ決めていなかった。その子が生きていればちょうど二十四歳になる。その名前のない子の誕生日に、家福はいつも一人で手を合わせた。そして生きていればなっていたはずの年齢を思った。 |
Iefuku từng có một đứa
con sống vỏn vẹn được ba ngày tuổi.
Một đứa con gái bị chết tại phòng chăm sóc trẻ của bệnh viện vào đêm thứ ba
của cuộc đời. Trái tim của nó đột
nhiên ngừng đập, không một dấu hiệu báo
trước. Khi trời sáng thì nó đã
chết rồi. Phía bệnh viện giải
thích rằng van tim của nó có dị tật bẩm sinh.
Nhưng gia đình y chẳng thể kiểm chứng được.
Vả lại, dù có biết nguyên nhân
thật đi nữa thì nó cũng có sống lại được đâu.
Chẳng biết may hay rủi mà tên nó còn chưa kịp đặt. Nếu còn sống,
đứa con đó cũng vừa tròn hai tư.
Cứ đến ngày sinh nhật đứa con không tên, Iefuku
lại một mình chắp tay cầu nguyện.
Trong đầu lẩm nhẩm số tuổi của con nếu nó còn sống. |
子供をそんな風に唐突に失ったことで、二人はもちろん深く傷ついた。そこに生じた空白は重く、暗かった。気持ちを立て直すまでに長い期間が必要だった。二人は家の中にこもり、多くの時間をほとんど無言のうちに送った。口を開けば、何かつまらないことを言ってしまいそうだったからだ。彼女はワインをよく飲むようになった。彼はしばらくのあいだ、異様なほど熱心に書道に凝っていた。真っ白な紙の上に黒々と筆を走らせ、様々な漢字を書いていると、自分の心の仕組みが透けて見えてくるような気がした。 |
Tất nhiên, việc mất con đột ngột như vậy khiến vợ chồng y vô cùng
đau đớn. Khoảng trống mới xuất hiện thật nặng nề và
u tối. Phải rất lâu sau thì y mới lấy lại được cảm xúc của
mình. Họ ở trong nhà và dành nhiều thời gian gần
như im lặng. Bởi ai cũng e rằng mở miệng ra thì sẽ chỉ
toàn những lời tẻ nhạt. Nàng bắt đầu uống rượu rất nhiều. Còn
y thì suốt một thời gian dài vùi đầu vào thư pháp đến mê muội. Khi dùng bút lông đen trên nền giấy trắng tinh và viết
các kí tự chữ Nho khác nhau thì y cảm thấy rằng cơ chế của tâm trí y có thể
được nhìn thấu. |
しかしお互いを支え合うことで、二人は少しずつ傷の痛みから回復し、その危うい時期を乗り切ることができた。そして以前より深く、それぞれの仕事に集中するようになった。彼らは貪欲なまでに、自分たちが与えられた役柄の役作りにのめり込んだ。「悪いけれどもう子供は作りたくないの」と彼女は言って、彼もそれに同意した。わかった、もう子供は作らないようにしよう。君がいいと思うようにすればいい。 |
Tuy nhiên, bằng cách hỗ trợ lẫn nhau, mà
cả hai đã từng bước hồi phục được vết thương,
vượt qua được thời kì nguy khốn. Hai người bắt đầu tập trung vào công việc nhiều hơn
trước. Họ lao vào sáng tạo vai diễn được giao như
háu đói. “Em xin lỗi,
nhưng em không muốn sinh con nữa,”
nàng nói và y đồng ý. Được rồi, chúng ta đừng có con nữa. Cứ làm như em muốn. |
思い起こしてみれば、妻がほかの男と性的関係を持つようになったのは、そのあとからだった。あるいは子供を失ったことが、彼女の中にそういう欲求を目覚めさせたのかもしれない。しかしそれはあくまで彼の憶測に過ぎない。かもしれないというだけのことだ。 |
Hồi tưởng thì y nhận ra
rằng chính lúc đó vợ y bắt đầu có quan hệ tình dục với người
đàn ông khác. Hình như việc mất đi đứa con đã đánh thức ham muốn tình dục ở nàng.
Song đó chỉ là suy đoán của y.
Chỉ là hình như thôi. |
|
|
「ひとつ質問していいですか?」とみさきが言った。 |
“Tôi hỏi anh một câu được không?”
Misaki nói. |
考え事をしながらぼんやりまわりの風景を眺めていた家福は、驚いて彼女の顔を見た。二ヶ月ほど一緒に長く車に乗っていて、みさきが自分の方から口をきくことはきわめて希まれだったからだ。 |
Đang suy tư lơ đãng nhìn
cảnh vật xung quanh thì Iefuku ngạc nhiên nhìn vào mặt cô. Suốt gần hai tháng trời ngồi cùng xe, việc Misaki tự mở lời trước là vô cùng
hiếm. |
「もちろん」と家福は言った。 |
“Tất
nhiên,” Iefuku nói. |
「家福さんはどうして俳優になったんですか?」 |
“Tại
sao anh Iefuku lại trở thành một diễn viên?” |
「大学生の時、女友だちに誘われて学生劇団に入った。演劇にもともと興味があったわけじゃない。本当は野球部に入りたかったんだ。高校時代にはレギュラーのショートストップで、守備には自信があった。でも入った大学の野球部は、僕にはいささかレベルが高すぎた。だからまあちょっと試しにやってみようというくらいの軽い気持ちで、劇団に入ったんだ。その女友だちと一緒にいたいということもあったしね。でもしばらくやっているうちに、自分が演技を楽しんでいることがだんだんわかってきた。演技をしていると、自分以外のものになることができる。そしてそれが終わると、また自分自身に戻れる。それが嬉しかった」 |
“Khi
tôi còn là một sinh viên đại học, bạn gái tôi đã mời tôi tham gia vào một đoàn
kịch của sinh viên. Tôi vốn dĩ không hứng thú với sân khấu. Tôi thực sự muốn
tham gia câu lạc bộ bóng chày. Khi còn học trung học, tôi rất tự tin ở vị trí phòng thủ nhờ chặn được các
đường bóng ngắn của cầu thủ chuyên nghiệp. Nhưng câu lạc bộ bóng
chày ở trường đại học mà tôi tham gia thì hơi quá cao so với tôi, vì vậy tôi đã
tham gia vào đội kịch, đơn giản là
muốn thử xem thế nào. Một phần cũng vì muốn ở
gần cô bạn đó nữa. Nhưng sau một thời gian thì tôi bắt đầu ưa thích công việc
diễn xuất. Khi diễn thì tôi có thể trở thành một con người khác. Diễn xong,
tôi lại trở về là tôi. Điều đó khiến tôi thấy vui.” |
「自分以外のものになれると嬉しいですか?」 |
“Anh
có hạnh phúc khi trở thành một cái gì đó khác hơn là chính mình?” |
「また元に戻れるとわかっていればね」 |
“Trong trường hợp biết rằng có thể trở về là
mình.” |
「元に戻りたくないと思ったことってないですか?」 |
“Đã bao giờ anh thấy không muốn trở về là
mình chưa?” |
家福はそれについて考えた。そんな質問をされたのは初めてだ。道路は渋滞していた。彼らは首都高速道路で竹橋の出口に向かっているところだった。 |
Iefuku suy nghĩ về điều ấy. Đây là lần đầu tiên y được hỏi một câu hỏi như vậy. Con đường bị tắc nghẽn. Họ đang di chuyển về hướng cửa ngõ Takebashi trên
đường cao tốc thủ đô. |
「だって他に戻るところもないだろう」と家福は言った。 |
“Đâu còn nơi nào khác để trở về,” Iefuku nói. |
みさきはそれについて意見を述べなかった。 |
Misaki không bình luận về điều này. |
しばらく沈黙が続いた。家福はかぶっていた野球帽を取り、その形を点検し、またかぶり直した。数え切れないほどのタイヤをつけた大型トレーラーの隣では、黄色いサーブ・コンバーティブルはいかにもはかないものに見えた。まるでタンカーの隣に浮かんだ観光用小型ボートのようだ。 |
Sự im lặng tiếp tục trong một lúc. Iefuku cởi chiếc mũ lưỡi trai đang đội ra, kiểm tra hình dạng của nó rồi đội lại. Đỗ
bên cạnh chiếc xe moóc khổng lồ với
vô số lốp xe thì chiếc
Saab mui trần màu vàng trông như mỏng manh. Chẳng
khác chiếc thuyền du lịch nhỏ dập dềnh bên mé tàu chở dầu. |
「余計なことかもしれませんが」とみさきは少しあとで言った。「気になるので、訊いていいですか?」 |
“Có thể tôi hơi nhiều chuyện,”
Misaki nói một chút sau đó. “Nhưng vì thắc mắc
nên tôi hỏi anh có được không?” |
「いいよ」と家福は言った。 |
“Được,”
Iefuku nói. |
「家福さんはどうして友だちとかつくらないんですか?」 |
“Tại sao anh Iefuku không có bạn?” |
家福はみさきの横顔に好奇の目を向けた。「僕に友だちがいないって、どうして君にわかるんだ?」 |
Iefuku hướng ánh mắt tò
mò về phía Misaki. “Sao cô biết là tôi không có bạn?” |
みさきは小さく肩をすぼめた。「二ヶ月近く毎日送り迎えしてれば、それくらいはわかります」 |
Misaki nhún vai. “Sau gần hai tháng
ngày nào cũng đưa đón anh thì tôi biết chứ.” |
家福はトレーラーの巨大なタイヤを興味深そうにしばらく眺めていた。それから言った。「そういえば、昔から友だちと呼べるような相手はあまりいなかったな」 |
Iefuku thích thú ngắm
những chiếc lốp khổng lồ của chiếc xe moóc.
Sau đó y nói: “Chẳng có nhiều kẻ mà có thể gọi là bạn thực sự.” |
「子供の頃からそうだったんですか?」 |
“Anh
đã như vậy từ khi còn là một đứa trẻ ư?” |
「いや、子供の頃にはもちろん仲の良い友だちはいたよ。一緒に野球をしたり、泳ぎに行ったり。でも大人になってからは、友だちがほしいとはあまり思わなくなった。とくに結婚してからは」 |
“Không,
tất nhiên tôi đã có những người bạn tốt khi còn nhỏ. Chúng tôi chơi bóng chày
và đi bơi cùng nhau. Nhưng khi trưởng thành thì tôi không thực sự muốn có bạn.
Đặc biệt là sau khi kết hôn.” |
「奥さんがいたから、友だちはそれほど必要なくなったということですか?」 |
“Ý
của anh là không cần nhiều bạn khi anh đã có vợ?” |
「そうかもしれない。僕らは良い友だちでもあったから」 |
“Có lẽ vậy. Bởi chúng tôi cũng là bạn tốt của
nhau.” |
「いくつのときに結婚されたんですか?」 |
“Anh
kết hôn khi nào?” |
「三十歳のときだよ。同じ映画に出ていて、それで知り合った。そのとき彼女は準主役で、僕は端は役やくだったけど」 |
“Lúc
ba mươi tuổi. Chúng tôi biết nhau khi
đóng chung một bộ phim. Khi đó nàng đóng vai phụ trọng yếu, còn tôi là một
vai vớ vẩn.” |
車は渋滞の中を少しずつ前に進んでいた。首都高速に入るときにはいつもそうするように、屋根は閉じられている。 |
Chiếc xe đang nhích từng chút trong dòng xe cộ. Mui xe được đóng lại như mọi lần khi họ lái
xe trên đường cao tốc. |
「君は酒はいっさい飲まないのか?」、家福は話題を変えるためにそう尋ねた。 |
“Cô
không uống rượu à?” Iefuku hỏi để chuyển chủ đề. |
「体質的にアルコールを受け入れないみたいです」とみさきは言った。「母親がお酒でよく問題を起こしていた人で、そのことも関係しているのかもしれません」 |
“Hình như tạng người tôi không hấp thụ được
chất có cồn,” Misaki nói. “Mẹ tôi là người thường xuyên gặp nan đề với rượu,
và điều đó có thể liên quan đến nó.” |
「お母さんは今でも問題を起こしているの?」 |
“Mẹ
cô vẫn còn nan đề à?” |
みさきは何度か首を振った。「母は亡くなりました。酔っぱらって運転していて、ハンドル操作を誤り、スピンして道路から飛び出し、木にぶつかったんです。ほとんど即死でした。私が十七のときのことです」 |
Misaki lắc đầu vài lần. “Mẹ tôi đã chết.
Bả lái xe trong tình trạng say rượu,
đánh lái sai cách, lao ra đường và tông vào một cái cây.
Bả chết gần như ngay lập tức. Đó là khi tôi mười bảy
tuổi.” |
「気の毒に」と家福は言った。 |
“Thật
buồn tiếc,” Iefuku nói. |
「自業自得です」とみさきはあっさりと言った。「いつかそういうことは必ず起こっていたでしょう。早いか遅いか、それだけの違いです」 |
“Gieo nhân nào gặt quả nấy thôi,” Misaki nói tỉnh bơ. “Chuyện đó chắc chắn
sẽ xảy ra. Chẳng chóng thì chầy.” |
しばらく沈黙があった。 |
Có một khoảng im lặng. |
「お父さんは?」 |
“Còn
bố cô thì sao?” |
「どこにいるかも知りません。私が八歳のときに家を出て、それから一度も会っていません。連絡もありません。そのことで母はずっと私を責めていました」 |
“Tôi
không biết ổng đang ở đâu. Ổng rời bỏ nhà khi tôi tám
tuổi và chưa bao giờ gặp lại. Cũng không nghe tin tức
gì về ổng. Vì chuyện này mà mẹ
cứ đay nghiến tôi suốt.” |
「どうして?」 |
“Tại
sao?” |
「私は一人っ子だったんです。私がもっと可愛いきれいな女の子だったら、父は家を出ていかなかったはずだ。母はいつもそう言っていました。私が生まれつき醜いから、捨てていったんだって」 |
“Tôi
là con một. Nếu tôi là một cô gái xinh xắn thì bố đã không bỏ nhà đi.
Mẹ tôi luôn nói như vậy. Tại tôi sinh ra xấu
xí nên bị bố vất bỏ.” |
「君は醜くなんかない」と家福は静かな声で言った。「お母さんはそう思いたかっただけだよ」 |
“Cô
đâu có xấu xí,” Iefuku nói với giọng trầm lắng. “Chỉ là mẹ cô muốn nghĩ
như vậy.” |
みさきはまた肩を少しすぼめた。「普段はそうでもないんですが、お酒が入ると、母は話がくどくなりました。同じことを何度も何度も繰り返して。こちらとしては傷つきます。悪いけど、死んだときには正直ほっとしたくらいです」 |
Misaki cũng hơi nhún vai. “Bình thường mẹ cũng
không đến nỗi nào nhưng hễ rượu vào là lời ra. Cứ nói đi nói lại
mỗi một chuyện. Tôi tổn thương lắm. Nói không phải chứ lúc bả mất, tôi thật sự thấy
nhẹ cả ngưòi.” |
そのあとの沈黙は前の時より長く続いた。 |
Khoảng lặng sau đó kéo dài hơn trước. |
「君には友だちはいる?」と家福は尋ねた。 |
“Cô
có bạn không?” Iefuku hỏi. |
みさきは首を振った。「友だちはいません」 |
Misaki lắc đầu. “Tôi không có bạn.” |
「どうして?」 |
“Tại
sao?” |
彼女はそれには答えなかった。眼を細め、ただじっと前方を見ていた。 |
Cổ không trả lời y. Cổ nheo mắt và chỉ nhìn chằm chằm về phía trước. |
家福は目を閉じて少し眠ろうとしたが、うまく眠れなかった。ストップと発進が細かく繰り返され、彼女はそのたびに丹念にシフトチェンジをした。隣の車線のトレーラーが大きな宿命の影のように、サーブの前になったり後ろになったりした。 |
Iefuku nhắm mắt lại định thiếp đi một lát nhưng không thể. Xe
cứ dừng rồi lại nhích, mỗi lần như vậy cổ đều khéo
léo sang số. Chiếc xe moóc ở làn bên
cạnh cứ như bóng ma số phận,
lúc vượt lên lúc lại tụt sau chiếc Saab. |
「僕が最後に友だちを作ったのは十年近く前のことになる」と家福はあきらめて目を開けて言った。「友だちらしきものと言った方が正確かもしれないな。相手は僕より六つか七つ年下で、なかなかいいやつでもあった。酒を飲むのが好きで、僕もそれにつきあって、飲みながらいろんな話をした」 |
“Lần
cuối cùng tôi kết bạn là cách đây gần mười niên,” Iefuku đành mở mắt, nói. “Kiểu như một người bạn thì có lẽ chính xác hơn.
Một tay rất được, kém tôi sáu, bảy tuổi. Hắn thích uống rượu, tôi cũng chịu
theo, chúng tôi đã nói rất nhiều chuyện bên bàn rượu.” |
みさきは小さく肯いて、話の続きを待った。家福は少し迷ったが、思い切ってそれを口にした。 |
Misaki khẽ gật đầu, đợi phần tiếp theo của câu chuyện. Đôi chút đắn đo thì cuối cùng Iefuku cũng
huỵch toẹt. |
「実を言うと、その男はしばらくのあいだ僕の奥さんと寝ていた。こちらがそれを知っていることを相手は知らなかった」 |
“Nói
thật ra thì hắn là một trong những người tình của vợ tôi. Hắn không biết rằng
tôi đã biết điều đó.” |
みさきは話の内容を吞み込むのに少し手間取った。「つまり、その人は家福さんの奥さんとセックスをしていたということですか?」 |
Misaki đã mất một chút thời gian mới lĩnh hội được nội
dung câu nói. “Ý anh là người
đàn ông đó có quan hệ tình dục với vợ của anh Iefuku hử?” |
「そうだよ。三ヶ月か四ヶ月くらいのあいだ、彼はうちの奥さんと何度かセックスをしていたと思う」 |
“Đúng
vậy. Tôi nghĩ rằng hắn đã
quan hệ tình dục với vợ tôi một cách thường xuyên trong ba hoặc bốn tháng.” |
「どうやってそれが家福さんにわかったんですか?」 |
“Làm
thế nào mà anh Iefuku biết được điều đó?” |
「彼女はもちろん隠していたけど、僕にはただそれがわかった。説明すると長い話になる。でも間違いはない。僕の思い過ごしなんかじゃない」 |
“Tất nhiên nàng giấu, nhưng tôi vẫn biết. Nói ra
thì dài lắm. Nhưng chính xác đấy. Không phải do tôi tưởng tượng đâu.” |
みさきは車が停止しているあいだ、両手でバックミラーを修正した。「奥さんとその人が寝ていることは、家福さんがその人と友だちになる妨げにはならなかったんですか?」 |
Trong lúc xe dừng, Misaki đưa hai tay chỉnh lại gương chiếu
hậu. “Việc kẻ đó ngủ với vợ của anh thì không gây
trở ngại đến việc anh Iefuku trở thành bạn của kẻ
đó à?” |
「むしろその逆だ」と家福は言った。「僕がその男と友だちになったのは、うちの奥さんがその男と寝ていたからだ」 |
“Ngược lại thì đúng hơn,” Iefuku nói. “Tôi đã khiến hắn trở thành bạn của tôi chính xác bởi vì hắn đã
ngủ với vợ tôi.” |
みさきは口を閉ざしていた。説明を待っているのだ。 |
Misaki không nói gì. Cổ đang chờ một lời giải thích. |
「どう言えばいいのかな……僕は理解したかったんだよ。どうしてうちの奥さんがその男と寝ることになったのか、なぜその男と寝なくてはならなかったのか。少なくともそれが最初の動機だった」 |
“Làm thế nào tôi
có thể giải thích điều này... Tôi muốn hiểu. Tại sao nàng lại ngủ với hắn, tại
sao hắn lại là người nàng muốn. Ít nhất đó là động cơ của tôi lúc ban đầu.” |
みさきは大きく呼吸した。胸がジャケットの下でゆっくり盛り上がり、そして沈んだ。「そういうのって気持ちとしてつらくはなかったんですか? 奥さんと寝ていたってわかっている人と一緒にお酒を飲んだり、話をしたりすることが」 |
Misaki hít một hơi dài. Ngực của cổ từ từ nhô lên và chìm xuống dưới lớp áo
khoác. “Nhưng điều đó không quá
đau đớn sao? Uống rượu và nói chuyện với một người đàn ông mà anh biết đã ngủ
với vợ anh?” |
「つらくないわけないさ」と家福は言った。「考えたくないこともつい考えてしまう。思い出したくないことも思い出してしまう。でも僕は演技をした。つまりそれが僕の仕事だから」 |
“Làm sao không đau đớn được.” Iefuku đáp. “Nó khiến tôi nghĩ tới
những điều không muốn nghĩ. Nhớ tới những điều không muốn nhớ. Nhưng tôi đã
diễn. Vì xét cho cùng thì đó là công việc của tôi.” |
「別の人格になる」とみさきは言った。 |
“Trở
thành một nhân cách khác,” Misaki nói. |
「そのとおり」 |
“Đúng
thế.” |
「そしてまた元の人格に戻る」 |
“Và
trở về nhân cách ban đầu.” |
「そのとおり」と家福は言った。「いやでも元に戻る。でも戻ってきたときは、前とは少しだけ立ち位置が違っている。それがルールなんだ。完全に前と同じということはあり得ない」 |
“Đúng
thế.” Iefuku nói. “Dù muốn hoặc không,
nhưng cái chỗ lúc trở về thì luôn luôn hơi khác với chỗ lúc rời đi. Đó là quy
luật. Không thể có chuyện giống hệt như trước được.” |
細かい雨が降り始め、みさきは何度かワイパーを動かした。「それで家福さんには理解できたんですか。どうして奥さんがその人と寝たのか?」 |
Trời bắt đầu mưa nhẹ, và Misaki di chuyển cần gạt nước vài lần. “Vậy anh Iefuku đã hiểu
ra chưa? Tại sao vợ anh lại ngủ với kẻ đó?” |
家福は首を振った。「いや、理解はできなかったな。彼が持ち合わせていて、僕が持ち合わせていないものは、いくつかあったと思う。というかたぶん、たくさんあったんだろうと思う。でもそのうちのどれが彼女の気持ちを捉えたのか、そこまではわからない。僕らはそんな細かいピンポイントのレベルで行動しているわけじゃないから。人と人とが関わり合うというのは、とくに男と女が関わり合うというのは、なんていうか、もっと全体的な問題なんだ。もっと曖あい昧まいで、もっと身勝手で、もっと切ないことだ」 |
Iefuku lắc đầu. “Không, tôi chẳng bao giờ hiểu ra. Tôi nghĩ hắn có vài điều mà tôi không có. Hình như là rất nhiều.
Nhưng tôi không biết thứ nào trong số đó chiếm được tình cảm của nàng. Vì chúng ta không cư xử ở cấp độ chi tiết, tỉ
mỉ đến vậy. Chuyện người và người gắn bó với nhau, đặc biệt là nam gắn bó với
nữ - nên nói thế nào nhỉ - là cấp độ mang tính tổng thể hơn. Mơ hồ hơn, ích kỉ
hơn, day dứt hơn.” |
みさきはしばらくそのことについて考えていた。それから言った。「でも、理解はできなくても、その人と友だちではあり続けたんですね?」 |
Misaki suy nghĩ về điều
này một lúc. Sau đó cổ hỏi. “Vậy,
cho dù không hiểu ra, nhưng anh vẫn tiếp tục làm bạn với kẻ đó sao?” |
家福はもう一度野球帽を取り、今度はそれを膝の上に載せた。そして手のひらで頭頂部をごしごしと撫でた。「どう言えばいいんだろうな。いったん真剣に演技を始めると、やめるきっかけを見つけるのがむずかしくなる。それがどれほど精神的にきついことであっても、その演技の意味がしかるべき形をとらないうちは、流れを止めることはできないんだ。音楽が、ある決まった和音に到達しないことには、正しい結末を迎えられないのと同じように……。僕の言ってることはわかる?」 |
Iefuku lại cởi chiếc mũ lưỡi trai, lần này đội nó lên đùi. Sau đó y dùng lòng bàn tay xoa lên đỉnh đầu. “Nói sao bây giờ nhỉ.
Một khi đã diễn nghiêm túc thì rất khó tìm được cơ hội để ngừng. Dù tinh thần
đang rất đau đớn, nhưng khi ý nghĩa của việc diễn xuất chưa có được hình hài
tương xứng thì ta không thể ngăn được dòng chảy. Giống như âm nhạc, khi chưa
đạt được phần hợp âm đã định sẵn thì không thể có phần kết chuẩn xác... Cô
hiểu điều tôi nói không?” |
みさきはマールボロを一本箱から取り出して口にくわえたが、火はつけなかった。車の屋根が閉じているときには彼女は決して煙草を吸わない。ただ口にくわえるだけだ。 |
Misaki rút một điếu thuốc từ gói Marlboro đưa lên
miệng nhưng không châm lửa. Cổ
không bao giờ hút thuốc khi mui xe đang đóng lại. Cổ
chỉ ngậm trên môi. |
「そのあいだも、その人と家福さんの奥さんは寝ていたのですか?」 |
“Vậy
kẻ đó vẫn ngủ với vợ anh Kafuku khi hai người là bạn hử?” |
「いや、寝ていなかった」と家福は言った。「そこまでやると、なんというか……あまりに技巧的になり過ぎる。僕が彼と友だちになったのは、うちの奥さんが亡くなって少ししてからだ」 |
“Không,
không phải vậy,” Kafuku nói. “Nếu hắn đã làm thế thì mọi chuyện đã thành - tôi phải nói thế
nào nhỉ - quá phức tạp. Chúng tôi trở thành bạn không lâu sau cái chết của vợ
tôi.” |
「彼とは本当の友だちになったのですか? それともあくまで演技だったんですか?」 |
“Hai người có trở thành bạn thật sự không?
Hay chỉ là diễn thôi?” |
家福はそれについて考えた。「両方だよ。その境目は僕自身にもだんだんわからなくなっていった。真剣に演技をするというのは、つまりそういうことだから」 |
Iefuku suy nghĩ một lúc. “Cả hai. Dần dần chính
tôi cũng không phân biệt được ranh giới. Suy cho cùng thì diễn nghiêm túc sẽ
là như thế.” |
|
|
家福はその男に、初対面のときから好意のようなものを抱くことができた。高たか槻つきという名前で、長身で顔立ちの良い、いわゆる二枚目の俳優だった。四十代の初め、とくに演技がうまいわけではない。存在に味があるというのでもない。役柄も限られている。だいたいは感じの良い爽やかな中年男性の役だ。いつもにこやかだが、時折横顔に憂愁を滲にじませる。年配の女性に根強い人気がある。家福はたまたまテレビ局の待合室で彼と顔を合わせた。妻が亡くなって半年後のことで、高槻は彼のところにやってきて自己紹介をし、悔やみを言った。奥様とは一度だけですが、映画でご一緒したことがあります。そのときにいろいろお世話になりました、と高槻は神妙な顔で言った。家福は礼を言った。時系列的に言えば、彼の知る限りでは、高槻は妻が性的な関係を持った男たちのリストの末尾に位置していた。彼との関係が終わった少しあと、彼女は病院で検査を受け、既にかなり進行した子宮癌が発見された。 |
Iefuku có cảm tình với
hắn ngay từ lần chạm mặt đầu tiên.
Hắn tên Takatsuki, dáng người cao ráo, gương mặt đẹp, tóm lại là một diễn viên điển trai. Hắn đã ngoài bốn mươi tuổi và không phải là một diễn
viên đặc biệt có kĩ năng. Phong
thái chẳng có gì nổi bật.
Loại vai nhận được cũng hạn chế.
Thường là vai trung niên nhẹ nhàng,
dễ mến. Lúc nào cũng mỉm cười
nhưng đôi lúc gương mặt vẫn phảng phất nét u buồn. Được các phụ nữ lớn tuổi đặc biệt hâm mộ. Iefuku tình cờ gặp hắn ta tại phòng chờ ở
đài truyền hình. Lúc đó vợ y mất được nửa
niên, Takatsuki đến chỗ y, tự giới thiệu về mình và ngỏ lời chia buồn. Với gương mặt trang nghiêm, Takatsuki bảo đã từng một lần đóng chung
với vợ y, được vợ y giúp đỡ rất
nhiều. Iefuku cảm ơn. Xét theo trình tự thời gian, theo như y biết thì Takatuski nằm ở vị trí
cuối cùng trong danh sách những người đàn ông mà vợ y có quan hệ tình dục. Không lâu sau khi kết thúc mối quan hệ với
hắn thì vợ y đi xét nghiệm và được phát hiện căn bệnh ung thư tử cung đang tiến
triển khá nhanh. |
「ひとつ勝手なお願いがあります」と家福は挨拶がひととおり終わったあとで切り出した。 |
“Tôi có việc này muốn nhờ cậu, tuy có hơi đường
đột,” Iefuku
nói sau màn chào hỏi xã giao. |
「どんなことでしょう?」 |
“Nó
là gì?” |
「もしよければ、高槻さんの時間を少しいただけませんか。お酒でも飲みながら、家内の思い出話なんかをできればと思うんです。家内はよくあなたのことを話していました」 |
“Nếu không phiền thì nhờ cậu Takatsuki sắp xếp
cho tôi chút thời gian. Tôi muốn cùng cậu uống rượu và hàn huyên về những kỉ
niệm của vợ tôi. Vợ tôi vẫn thường nhắc đến cậu.” |
急にそう言われて、高槻は驚いたようだった。ショックを受けたと言った方が近いかもしれない。彼は端正な形の眉を軽く寄せ、用心深く家福の顔をうかがった。何か話の裏があるんじゃないか、というように。しかしそこに特別な意図は何も読み取れなかった。家福は長く連れ添った妻を亡くしたばかりの男がいかにも浮かべそうな静かな表情を浮かべていた。波紋が広がり終わったあとの池の水面のような表情だ。 |
Bất ngờ,
Takatsuki có vẻ ngạc nhiên. Có lẽ là sốc thì đúng hơn. Hắn nhíu đôi
lông mày đã được định hình gọn gàng của mình và quan sát khuôn mặt của Iefuku
một cách thận trọng. Như thể nghi ngờ có âm
mưu nào đó đằng sau. Nhưng hắn không đọc thấy
có ý đồ gì đặc biệt. Iefuku thể hiện nét mặt
trầm mặc thường thấy ở một người đàn ông vừa mất đi người vợ đã nhiều niên đầu
gối tay ấp. Nét mặt tựa như mặt hồ
sau đợt sóng lăn tăn. |
「私としては誰か、妻のことが話せる話し相手がほしいだけなんです」と家福は言い添えた。「うちに一人でじっとしていると、正直言って時々きつくなります。高槻さんにはきっとご迷惑だとは思いますが」 |
“Chỉ là tôi cần có người có thể nói chuyện về vợ
tôi thôi,” Iefuku nói thêm. “Thành thật mà nói, cứ ở một mình trong nhà thì tôi thấy ngột ngạt lắm. Dù biết thế
này là làm phiền cậu Takatsuki ạ.” |
それを聞いて高槻はいくらかほっとしたようだった。どうやら関係を疑われているわけではなさそうだ。 |
Takatsuki có vẻ nhẹ nhõm hơn khi nghe điều đó. Rõ ràng mối quan hệ không bị nghi ngờ. |
「いや、迷惑なんかじゃありません。そういう時間なら喜んで作りましょう。僕みたいなつまらない話し相手でよろしければ」。そう言って、彼は軽い微笑みを口元に浮かべた。目尻に優しげなしわが寄った。なかなかチャーミングな微笑みだ。もし自分が中年の女性であれば、きっと頰を赤らめるところだろうと家福は思った。 |
“Không,
không phiền gì đâu. Tôi rất vui được sắp xếp thời gian. Nếu anh không chê người nói chuyện chán như tôi.” Nói xong, hắn nở một nụ cười nhẹ trên miệng. Khóe
mắt xuất hiện nếp nhăn thương cảm.
Một nụ cười ấm áp. Iefuku thầm nghĩ, nếu mình là phụ nữ trung niên thì thế nào
hai bên má cũng ửng đỏ. |
高槻は頭の中で素速くスケジュール表を繰った。「明日の夜ならゆっくりお目にかかれると思いますが、家福さんのご予定はいかがですか?」 |
Takatsuki chạy nhanh lịch trình trong đầu. “Tôi nghĩ tôi có nhiều thời gian vào tối mai. Anh có kế hoạch
khác không?” |
明日の夜なら自分も空いていると家福は言った。それにしてもずいぶん感情の読み取りやすい男だ、と家福は感心した。両目をまっすぐのぞき込んだら、向こう側まで透けて見えてしまいそうだ。屈折したところも、意地の悪そうなところもない。夜中に深い落とし穴を掘って、誰かが通りかかるのを待つようなタイプではない。俳優としてはおそらくそれほど大成しないだろうが。 |
Iefuku đáp tối mai y cũng
rảnh. Mặc dù vậy y vẫn không
tránh khỏi ngạc nhiên khi thấy đối tượng là người dễ đọc được cảm xúc. Như thể chỉ cần nhìn thẳng vào đôi mắt hắn
là đọc thấu được tâm can.
Không lươn lẹo, không có vẻ gì là xấu
tính. Không phải loại người
đào hố giữa đêm để đợi ai đó đi qua.
Và có lẽ không thành công lắm trong vai trò diễn viên. |
「場所はどこが良いでしょう?」と高槻は尋ねた。 |
“Chúng ta sẽ gặp
nhau ở đâu?” Takatsuki hỏi. |
「場所はまかせます。どこでも指定してもらえれば、そちらにうかがいます」と家福は言った。 |
“Tùy cậu. Cậu bảo nơi đâu thì tôi sẽ đến nơi đó,” Iefuku nói. |
高槻は銀座の有名なバーの名前をあげた。そこのボックス席を予約しておけば、誰かに話を聞かれることなく、心おきなく会話をすることができる、と彼は言った。家福はその店の場所を知っていた。そして二人は握手をして別れた。高槻の手は柔らかく、指はほっそりとして長かった。手のひらは温かく、僅かに汗で湿っているようだった。緊張のせいかもしれない。 |
Takatsuki nói tên một
quán bar nổi tiếng ở Ginza.
Hắn nói nếu đặt phòng riêng thì có thể trò chuyện thoải mái mà không sợ người
khác nghe thấy. Iefuku biết quán bar này. Sau đó hai người bắt tay tạm biệt. Bàn
tay của Takatsuki mềm mại và những ngón tay của hắn mảnh và dài. Lòng bàn tay ấm áp và dường như hơi đẫm mồ hôi. Có thể là do căng thẳng. |
彼が立ち去ったあと、家福は待合室の椅子に腰を下ろし、握手をした手のひらを広げ、しげしげと見つめた。そこには高槻の手の感触が生々しく残っていた。あの手が、あの指が妻の裸の身体を撫でたのだ、と家福は思った。時間をかけて、隅から隅まで。それから彼は目を閉じ、深く長く息をついた。いったい自分はこれから何をしようとしているんだろう、と思った。しかしいずれにせよ、彼はそれをしないわけにはいかなかった。 |
Sau khi hắn rời khỏi thì Iefuku
ngồi xuống ghế ở phòng chờ,
mở bàn tay vừa bắt ra, nhìn chằm chằm vào đó. Ở đó vẫn còn cảm giác bàn tay của
Takatsuki. Iefuku nghĩ bàn tay ấy ngón
tay ấy đã vuốt ve cơ thể trần truồng của vợ mình, rất chậm rãi,
len vào từng ngóc ngách. Sau đó y nhắm mắt và thở
dài. Y tự hỏi không biết mình
đang định làm gì. Y cảm thấy rằng bất kể “nó” là gì thì y không có lựa chọn nào khác
ngoài việc tiếp tục và làm điều đó. |
|
|
バーの静かなボックス席で、モルト・ウィスキーのグラスを傾けながら、家福にひとつ理解できたことがあった。それは高槻が今でも自分の妻に心を強く惹かれているらしいということだった。彼女が死んだことは、その肉体が焼かれて骨と灰だけになってしまったという事実は、高槻にはまだうまく吞み込めていないようだった。その気持ちは家福にも理解できた。妻の思い出話をしながら、高槻は時折うっすらと目に涙を浮かべそうになった。見ていて、思わず腕を差し伸べてやりたくなったくらいだ。この男は自分の気持ちがうまく隠せないのだ。少しかまをかけたらすぐにすべてを告白してしまいそうだ。 |
Tại căn phòng yên tĩnh
trong quán bar, trong lúc nhâm nhi li
whiskey mạch nha thì Iefuku hiểu ra một điều.
Đó là đến tận bây giờ, Takatsuki vẫn bị thu hút mạnh mẽ bởi vợ y. Dường như Takatsuki chưa chấp nhận được sự
thật rằng nàng đã chết, cơ thể nàng đã bị thiêu
thành tro. Iefuku hiểu cảm giác này. Trong lúc nhắc lại những kỉ niệm về vợ y
thì thỉnh thoảng Takatsuki lại rơm rớm nước mắt.
Trông thấy vậy, y đã muốn chìa tay ra để
an ủi. Người đàn ông này không thể che giấu cảm xúc của mình tốt. Iefuku cảm thấy rằng y có thể đánh lừa hắn bằng một
câu hỏi mẹo nếu y chọn như vậy, khiến hắn thú nhận mọi thứ. |
高槻の口ぶりからすると、二人の関係を打ち切ることを通告したのは妻の方であるらしかった。おそらく「もう私たちは会わない方がいいと思う」と彼女は高槻に告げたのだろう。そして実際に会おうとしなかった。何ヶ月か関係を続け、それをどこかの時点できっぱり終わらせてしまう。ずるずるとあとはひかない。家福の知る限りでは、それが彼女の情事(と呼んでいいのだろうか)のパターンだった。しかし高槻の方には、そんなにあっさりと彼女と別れる覚悟はできていなかったようだ。彼は彼女とのあいだにもっと恒久的な関係を求めていたのだろう。 |
Từ giọng kể của Takatsưki
thì có vẻ vợ y là người thông báo kết thúc mối quan hệ giữa hai người. Có lẽ
nàng đã nói với Takatsuki: “Chúng ta không nên gặp nhau nữa.”
Và
thực tế nàng cũng không định gặp nữa.
Duy trì mối quan hệ trong vài tháng,
đến một thời điểm nào đó thì kết thúc dứt khoát.
Không lằng nhằng dây dưa.
Theo như Iefuku biết thì đó là quy chuẩn yêu đương (có thể gọi vậy không nhỉ)
của nàng. Tuy nhiên, có vẻ như Takatsuki đã không chuẩn bị để chia tay nàng
một cách chóng
vánh như vậy. Có lẽ hắn mưu cầu một
mối quan hệ lâu bền hơn với nàng. |
癌が末期になって都内の病院のホスピスに入ったあと、高槻は見舞いに来たいと連絡をしてきたが、それもきっぱりと拒絶された。妻は入院してからは、ほとんど誰とも顔を合わせなかった。医療関係者以外で彼女の病室に入ることを許されていたのは彼女の母親と妹と、そして家福の三人だけだった。高槻には、一度も彼女の見舞いに来られなかったことが心残りになっているようだった。妻が癌を患っていることを高槻が知ったのは、彼女が亡くなる数週間前のことだった。それは彼にとってまさに寝耳に水の知らせだったし、今でもまだうまく受け入れられていない事実だった。その気持ちは家福にも理解できる。しかしもちろん、彼らの抱いている感情がまったく同じというわけではない。家福はやつれ果てた妻の最期の姿を日々目にしていたし、火葬場で彼女の真っ白な骨を拾いもした。それなりの受容の段階を通過してきている。それはずいぶん大きな違いになる。 |
Khi bệnh đến giai đoạn
cuối, nàng được chuyển vào
phòng chăm sóc đặc biệt tại một bệnh viện nội thành. Takatsuki có liên lạc rằng hắn muốn tới
thăm nhưng bị nàng khước từ thẳng thừng.
Kể từ lúc nhập viện, vợ y hầu như không gặp
ai. Ngoài bác sĩ, chỉ có ba người được phép vào phòng bệnh
của nàng là mẹ nàng, em gái nàng và Iefuku. Takatsuki vẫn day dứt về việc không thể
đến thăm nàng dù chỉ một lần.
Takatsuki biết nàng bị ung thư chỉ vài tuần trước khi nàng qua đời. Với hắn,
tin đó như sét đánh ngang tai,
một sự thật mà đến giờ hắn vẫn chưa thể chấp nhận. Iefuku cũng hiểu cảm giác đó. Nhưng đương nhiên là cảm giác của hai
người không hoàn toàn giống nhau. Kafuku
đã chứng kiến vợ mình tàn lụi từng ngày khi đoạn cuối gần kề, và y đã nhặt chỗ tro trắng muốt của nàng
tại đài hóa thân. Y đã trải qua tất cả các giai đoạn. Điều đó đã
tạo ra một sự khác biệt rất lớn. |
まるでおれの方がこの男を慰めているみたいだな、二人で思い出話を交換しながら家福はそう思った。もし妻がこんな光景を目撃したら、いったいどう感じるのだろう? そう思うと家福は不思議な気持ちになった。しかしおそらく死んだ人間はもう何も考えないし、何も感じない。それは、家福の観点からすればということだが、死ぬことの優れた点のひとつだった。 |
Iefuku đã nghĩ như thể
chính y là người đang an ủi hắn trong lúc hai người trao đổi những kỉ niệm. Nếu nhìn thấy cảnh tượng này thì chẳng biết
vợ y sẽ cảm thấy thế nào? Ý tưởng đó đã khơi dậy một cảm
xúc kì lạ trong Iefuku. Tuy nhiên, người chết chẳng nghĩ gì, cũng chẳng cảm thấy gì. Điều này,
theo cách nhìn của Iefuku,
là một trong những ưu điểm của cái chết. |
もうひとつ判明したことがある。それは高槻に酒を飲み過ぎる傾向があることだった。家福は職業柄、数多くの酒飲みを目にしていたが(どうして俳優たちはこれほど熱心に酒を飲むのだろう)、高槻はどう見ても健全な、健康的な部類に属する酒飲みとは言えなかった。家福に言わせれば、世の中には大きく分けて二種類の酒飲みがいる。ひとつは自分に何かをつけ加えるために酒を飲まなくてはならない人々であり、もうひとつは自分から何かを取り去るために酒を飲まなくてはならない人々だ。そして高槻の飲み方は明らかに後者だった。 |
Có một điều nữa được bật ra. Đó là Takatsuki có xu hướng uống quá nhiều. Do
tính chất công việc, Iefuku đã gặp rất nhiều
người nghiện rượu – tại sao các nam diễn viên lại dễ nghiện
rượu như vậy? - nhưng
kiểu gì thì cũng không thể nói Takatsuki thuộc nhóm uống có chừng mực, điều độ.
Theo Iefuku, trên đời này có hai loại người uống rượu.
Một là những người buộc phải uống rượu để thêm cho mình thứ gì đó, loại còn lại là buộc phải uống rượu đế
trút bỏ khỏi mình thứ gì đó.
Cách uống của Takatsuki hiển nhiên thuộc loại thứ hai. |
彼が何を取り去りたいのか、家福にはわからない。ただの性格の弱さかもしれないし、過去に受けた心の傷かもしれない。あるいは今現実に抱え込んでいる面倒な問題かもしれない。そういうすべての混合物かもしれない。しかし何であるにせよ、彼の中にはそういう「できれば忘れてしまいたい何か」があり、それを忘れるために、あるいはそれが生み出す痛みを和やわらげるために、酒を口にせずにはいられないのだ。家福が一杯飲むあいだに、高槻は同じものを二杯半飲んだ。かなりのハイペースだ。 |
Iefuku không rõ hắn muốn
trút bỏ thứ gì. Có thể là sự yếu đuối trong tính cách của hắn, hoặc vết
thương lòng trong quá khứ của hắn. Hoặc có lẽ thứ
gì đó ở hiện tại đang gây ra nan đề cho hắn. Hoặc có thể là sự kết hợp của tất cả những thứ đó. Dù đó là gì thì hắn đang cố gắng
như điên để quên nó đi hoặc để làm tê liệt nỗi đau mà nó gây ra, điều đó khiến hắn
cần phải uống. Iefuku mới uống hết một li
thì Takatsuki đã làm hết hai li rưỡi.
Một nhịp độ khá nhanh. |
あるいは飲むペースが速いのは、精神的緊張のためかもしれない。なにしろ自分がかつて隠れて寝ていた女の亭主と、二人で差し向かいで酒を飲んでいるのだ。緊張しない方がおかしい。しかしそれだけではあるまいと家福は思った。もともとそういう酒の飲み方しかできない男なのだろう。 |
Hoặc có thể hắn uống
nhanh do căng thẳng. Dù gì thì hắn cũng đang
mặt đối mặt với chồng của người phụ nữ mà hắn đã lén lút chung chạ. Không căng thẳng mới là lạ. Nhưng Iefuku nghĩ không chỉ vậy. Có lẽ vốn dĩ hắn chỉ có thể uống theo cách
đó. |
相手の様子をうかがいながら、家福は自分のペースを守って慎重に酒を飲んだ。グラスを重ね、相手の緊張が少しほぐれたところで、彼は高槻に結婚はしているのかと尋ねた。結婚して十年になり、七歳の男の子がいると相手は答えた。しかし事情があって去年から別居している。おそらく近々離婚することになるだろうが、そのときは子供の親権が大きな問題になるはずだ。子供に自由に会えなくなることだけはなんとしても回避したい。自分にとってなくてはならない存在だから。彼は子供の写真を見せてくれた。顔立ちの良いおとなしそうな男の子だった。 |
Iefuku vừa thăm dò thái
độ của đối phương và vừa thận trọng giữ nhịp độ uống rượu. Khi thấy đối phương bớt căng thẳng sau vài
li thì y hỏi Takatsuki rằng hắn có vợ chưa.
Đối phương đáp đã lấy vợ được mười niên,
có một cậu con trai bảy tuổi. Tuy nhiên, do một số hoàn cảnh nhất định mà hắn và vợ
đã sống xa nhau kể từ niên trước. Một cuộc li
hôn có khả năng xảy ra,
khi ấy, quyền giám hộ đứa con sẽ
trở thành vấn đề lớn. Dù phải làm bất cứ điều
gì thì hắn cũng muốn tránh việc không thể tự do gặp con. Vì đứa con là thứ không thể thiếu đối với
hắn. Hắn cho y xem ảnh nó. Một bé trai trông xinh xắn, ngoan ngoãn. |
高槻は常習的な酒飲みのおおかたがそうであるように、アルコールが入ると口が軽くなった。おそらくはしゃべるべきでないことも、訊きもしないのに、自分から進んでしゃべった。家福はおおむね聞き役にまわり、温かく相づちを打ち、慰めるべきことがあれば言葉を選んで慰めた。そしてできるだけ多くの、彼に関する情報を集めた。家福は自分がいかにも高槻に好意を持っているように振る舞った。それは決して難しいことではなかった。彼は生来聞き上手だったし、また実際に高槻に対して好意を持っていたからだ。それに加えて、二人にはひとつの大きな共通点があった。死んでしまった一人の美しい女に、いまだに心を惹かれ続けている。二人とも立場こそ違え、同じようにその欠損を埋めることができずにいた。だから何かと話は合う。 |
Giống như hầu hết những người nghiện rượu khác thì Takatsuki theo thói quen
hễ rượu vào là lời ra. Hắn tự nói ra cả những
điều lẽ ra không nên nói,
cho dù phía bên kia không hỏi. Iefuku
chủ yếu đóng vai người nghe,
hưởng ứng rất chân thành,
chỗ nào cần an ủi thì y sẽ lựa lời an ủi.
Và cố gắng thu thập càng nhiều thông tin liên quan đến đối phương càng tốt. Iefuku
cư xử như thể y thực sự thích Takatsuki.
Việc đó không hề khó. Bẩm sinh y đã giỏi lắng
nghe, vả lại trên thực tế y
cũng có cảm tình với Takatsuki.
Thêm nữa, cả hai có một điểm chung
lớn đó là đến giờ vẫn còn bị mê hoặc bởi một người phụ nữ
xinh đẹp đã qua
đời. Dù cả hai đều ở những vị trí khác nhau nhưng cả hai lại giống
nhau ở chỗ không thể khỏa lấp nỗi mất mát đó.
Vì vậy câu chuyện giữa họ có gì đó rất hợp. |
「高槻さん、よかったらまたどこかで会いませんか? あなたとお話しできてよかった。こんな気持ちになれたのは久しぶりです」と家福は別れ際に言った。バーの勘定は家福が前もって払っておいた。いずれにせよ、誰かがそこの勘定を払わなくてはならないという考えは、高槻の頭には浮かびもしないようだった。アルコールは彼にいろんなことを忘れさせてしまう。おそらくはいくつかの大事なことを。 |
“Takatsuki
nè, cậu có muốn ta lại gặp nhau ở đâu đó không? Tớ rất vui vì có thể nói chuyện
với cậu. Đã lâu rồi tớ không cảm thấy như thế này.” Iefuku nói vào lúc chia tay. Iefuku đã thanh toán hóa đơn trước đó. Có vẻ như Takatsuki đã không nhận ra rằng
ai đó sẽ phải trả tiền. Rượu khiến hắn quên đi rất nhiều. Chắc
chắn một số rất quan trọng. |
「もちろんです」と高槻はグラスから顔を上げて言った。「是非またお会いできればと思います。家福さんとお話しして、僕も胸のつかえがいくらか取れたような気がします」 |
“Tất
nhiên rồi,” Takatsuki
ngẩng mặt lên khỏi li rượu. “Tôi
hi vọng sẽ gặp lại anh. Nói chuyện với anh Iefuku thì tôi cảm thấy như được giải tỏa
phần nào trong lồng ngực.” |
「こうしてあなたとお目にかかれたのも何かの縁でしょう」と家福は言った。「亡くなった妻が引き合わせてくれたのかもしれない」 |
“Được gặp cậu thế này thì chắc cũng phải có
duyên gì đó,” Iefuku nói. “Có lẽ chính người vợ đã khuất của tôi đã đưa chúng ta đến với
nhau.” |
それはある意味では真実だった。 |
Điều đó đúng theo một nghĩa nào đó. |
二人は携帯電話の番号を交換した。そして握手をして別れた。 |
Hai người đã trao đổi số điện thoại di động. Sau đó bắt tay tạm biệt. |
|
|
そのようにして二人は友だちになった。気の合う酒飲み仲間というところだ。二人は連絡を取り合って顔を合わせ、都内のあちこちのバーで酒を飲み、あてもなく話をした。食事を共にしたことは一度もない。行き先は常に酒場だった。軽いつまみ以外のものを高槻が口にするところを、家福は目にしたことがない。ひょっとしてこの男は食事というものをほとんどとらないのかもしれないと思ったほどだった。そしてたまにビールを飲むのを別にすれば、ウィスキー以外の酒を注文したこともない。シングル・モルトが彼の好みだった。 |
Đó là cách họ trở thành bạn của nhau. Nói chính xác hơn chính là bạn nhậu. Cả hai vẫn giữ liên lạc, gặp mặt trực tiếp, uống rượu tại các quán bar quanh thành phố và nói chuyện
với nhau. Họ chưa bao giờ ăn cùng nhau. Điểm đến luôn là một quán bar. Iefuku chưa bao giờ thấy Takatsuki ăn thứ gì ngoài những đồ
nhắm nhẹ. Đến mức y nghĩ rằng người này hầu như chẳng
mấy khi ăn. Ngoại trừ bia không thường xuyên thì đồ uống duy nhất hắn
từng gọi là rượu whisky. Single-malt là loại hắn
ưa thích. |
語り合う話の内容は様々だったが、途中からいつも決まって家福の死んだ妻の話になった。家福がまだ若い頃の彼女のエピソードを話すと、高槻は真剣な顔つきでそれに耳を傾けた。まるで他人の記憶の蒐しゆう集しゆう管理をしている人のように。気がつくと、家福自身もそんな会話を楽しんでいた。 |
Nội dung cuộc nói chuyện rất đa dạng, nhưng
đến nửa chừng thì thế nào cũng chuyển sang nói về người vợ đã khuất của Iefuku. Khi
Iefuku kể những mẩu chuyện hồi nàng còn trẻ thì Takatsuki nghiêm trang lắng
nghe, hệt như kẻ đi thu giữ kí
ức của người khác. Lúc nhận ra thì Iefuku cũng
thấy bản thân y đang thích thú với kiểu trò chuyện này. |
その夜は青山の小さなバーで二人は飲んでいた。根津美術館の裏手の路地の奥にある目立たない店だった。四十歳前後の無口な男がいつもバーテンダーとして働き、隅の飾り棚の上では灰色のやせた猫が丸くなって眠っていた。この店に居着いている近所の野良猫のようだった。古いジャズのレコードがターンテーブルの上で回っていた。二人はその店の雰囲気が気に入って、前にも何度か訪れていた。二人が待ち合わせるとき、なぜか雨が降っていることが多かったが、その日もやはり細かい雨が降っていた。 |
Họ đã uống rượu tại một quán bar nhỏ ở Aoyama vào đêm
đó. Đó là một quán không phô trương trong con
hẻm sau của Bảo tàng Nezu. Một
người đàn ông khoảng 40 tuổi kiệm lời luôn
làm công việc pha chế rượu, và một
con mèo gầy guộc màu xám đang cuộn mình ngủ trên chiếc tủ trong góc. Nó giống như một con mèo hoang trong xóm trú trong quán
này. Một đĩa nhạc jazz cũ đang quay trên bàn
xoay. Họ thích bầu không khí của cửa hàng và đã
ghé vào vài lần trước đó. Khi
hai người gặp nhau thì không hiểu sao trời thường mưa, và hôm đó trời vẫn mưa. |
「本当に素敵な女性でした」と高槻はテーブルの上に置いた両手を見ながら言った。中年期を迎えた男にしては美しい手だ。目だった皺もなく、爪の手入れも怠りない。「ああいう人と一緒になれて、生活を共にできて、家福さんはきっと幸福だったんでしょうね」 |
“Nàng là một
người phụ nữ tuyệt vời,” Takatsuki nói, chăm chú nhìn vào đôi tay của chính hắn đang đặt lên bàn. Đó là đôi bàn tay đẹp của một người đàn ông trung niên. Không có nếp da nhăn nào đáng kể, và móng tay cũng được chăm chút cẩn thận. “Tôi chắc rằng anh Iefuku
rất hạnh phúc để sống với một người như vậy.” |
「そうだね」と家福は言った。「あなたの言うとおりだ。たぶん幸福だったのだと思う。でも幸福であるぶん、それだけ気持ちがつらくなることもあった」 |
“Đúng
thế,” Iefuku nói. “Cậu nói đúng. Tớ nghĩ rằng tớ đã hạnh phúc, nhưng niềm hạnh phúc
của tớ đôi khi khiến tớ cảm thấy khó chịu.” |
「たとえばどんなことですか?」 |
“Ý
anh là sao, ví dụ?” |
家福はオン・ザ・ロックのグラスを持ち上げ、大きな氷をぐるりと回した。「彼女をいつか失ってしまうかもしれない。そのことを想像すると、それだけで胸が痛んだ」 |
Iefuku cầm li của mình lên và lắc lắc viên đá to trong đó. “Tớ có thể mất nàng vào một ngày nào đó. Hãy tưởng tượng điều đó,
và chỉ điều đó thôi thì đã khiến ngực tớ đau nhói.” |
「僕にもその気持ちはよくわかります」と高槻は言った。 |
“Tôi
hiểu rõ cảm giác đó,” Takatsuki nói. |
「どんな風に?」 |
“Bằng
cách nào?” |
「つまり……」と高槻は言って、正しい言葉を探した。「彼女のような素敵な人を失うことについてです」 |
“Đó
là...” Takatsuki nói và tìm kiếm những từ chính
xác. “Đó là việc mất đi một
người tốt như nàng.” |
「一般論として?」 |
“Là
lí thuyết chung?” |
「そうですね」と高槻は言った。そして自分自身を納得させるように何度か肯いた。「あくまで想像するしかないことですが」 |
“Đúng
vậy,” Takatsuki nói. Hắn gật đầu nhiều lần, như thể đang cố thuyết phục bản thân. “Chỉ là tôi tưởng
tượng vậy thôi.” |
家福はしばらく沈黙を守っていた。できるだけ長く、ぎりぎりまでそれを引き延ばした。それから言った。 |
Iefuku im lặng. Y để cho sự im lặng kéo dài càng lâu càng
tốt. Cuối cùng thì y cũng nói. |
「でも結局のところ、僕は彼女を失ってしまった。生きているうちから少しずつ失い続け、最終的にすべてなくしてしまった。浸食によってなくし続けたものを、最後に大波に根こそぎ持って行かれるみたいに……。僕の言ってる意味はわかるかな?」 |
“Nhưng
cuối cùng, tớ đã mất nàng. Tớ đã mất đi từng chút một từ khi còn sống, và cuối
cùng tớ đã mất tất cả. Những gì tớ đã mất là qua quá trình xói mòn đến cuối cùng thì bị bật luôn cả gốc rễ trong
những cơn sóng lớn... Cậu hiểu điều tớ nói chứ?” |
「わかると思います」 |
“Tôi
nghĩ tôi hiểu.” |
いや、おまえにはそんなことはわからないよ、と家福は心の中で思った。 |
Không, cậu làm sao mà hiểu được, Iefuku nhủ thầm. |
「僕にとって何よりつらいのは」と家福は言った。「僕が彼女を──少なくともそのおそらくは大事な一部を──本当には理解できていなかったということなんだ。そして彼女が死んでしまった今、おそらくそれは永遠に理解されないままに終わってしまうだろう。深い海の底に沈められた小さな堅い金庫みたいに。そのことを思うと胸が締めつけられる」 |
“Điều
đau đớn hơn cả đối
với tớ là,” Iefuku nói. “Tớ không thực sự hiểu
nàng – hoặc ít nhất một
phần quan trọng nào đó của nàng – và bây giờ nàng đã mất thì có lẽ sẽ mãi mãi không được hiểu. Nó
giống như một chiếc két sắt nhỏ bị chìm xuống đáy biển sâu. Điều
đó khiến trái tim tớ thắt lại.” |
高槻はそれについてしばし考えていた。そして口を開いた。 |
Takatsuki đã suy nghĩ về nó một lúc. Và y đã mở miệng. |
「しかし、家福さん、誰かのことをすべて理解するなんてことが、僕らに果たしてできるんでしょうか? たとえその人を深く愛しているにせよ」 |
“Nhưng
anh Iefuku nè, liệu chúng ta có thể thực sự hiểu ai đó không? Ngay cả khi
chúng ta thương ái kẻ ấy sâu sắc.” |
家福は言った。「僕らは二十年近く生活を共にしていたし、親密な夫婦であると同時に、信頼しあえる友だちであると思っていた。お互い何もかも正直に語り合っていると。少なくとも僕はそう思っていた。でも本当はそうじゃなかったのかもしれない。何と言えばいいんだろう……僕には致命的な盲点のようなものがあったのかもしれない」 |
Iefuku nói. “Chúng tớ đã sống với nhau gần 20 niên và nghĩ rằng chúng tớ là cặp
đôi thân thiết, đồng thời là những người bạn đáng tin cậy. Chúng tớ đã nói thật
lòng về mọi thứ. Ít ra thì tớ cũng nghĩ như vậy. Nhưng có lẽ không phải vậy. Tớ
nên nói thế nào nhỉ... có lẽ tớ đã có một cái gì đó giống như một điểm mù chết
người.” |
「盲点」と高槻は言った。 |
“Điểm
mù,” Takatsuki nhắc lại. |
「僕は彼女の中にある、何か大事なものを見落としていたのかもしれない。いや、目で見てはいても、実際にはそれが見えていなかったのかもしれない」 |
“Có
thể tớ đã bỏ qua điều gì đó quan trọng ở nàng. Không, tớ ắt có thể đã nhìn thấy
nó rồi, nhưng tớ thực sự đã không thể nhận ra nó.” |
高槻はしばらく唇を嚙んでいた。それから残っていた酒を飲み干し、バーテンダーにお代わりを頼んだ。 |
Takatsuki mím môi một lúc. Sau đó, hắn
uống nốt phần rượu còn lại và yêu cầu người phục vụ đem thêm rượu. |
「その気持ちはわかります」と高槻は言った。 |
“Tôi
hiểu cảm giác đó,” Takatsuki nói. |
家福はじっと高槻の目を見た。高槻はしばらくその視線を受けていたが、やがて目を逸そらせた。 |
Iefuku nhìn chằm chằm vào mắt Takatsuki. Takatsuki
tiếp nhận ánh mắt đó một lúc nhưng rồi cuối cùng vẫn phải đưa mắt đi chỗ khác. |
「わかるって、どんな風に?」と家福は静かに尋ねた。 |
“Cậu
hiểu, như thế nào?” Iefuku khẽ hỏi. |
バーテンダーがオン・ザ・ロックのお代わりをもってやって来て、湿って膨んだ紙のコースターを新しいものに取り替えた。そのあいだ二人は沈黙を守っていた。 |
Người phục vụ rượu đem đồ uống mới và thay thế cái lót
giấy bị ẩm và phồng lên bằng cái mới. Trong khi đó, cả hai vẫn im lặng. |
「わかるって、どんな風に?」、バーテンダーが去ると、家福は再度尋ねた。 |
“Cậu
hiểu, như thế nào?” Iefuku lập lại khi người phục vụ rời đi. |
高槻は思いを巡らせていた。彼の目の中で何かが小さく揺れた。この男は迷っているのだ、家福はそう推測した。ここで何かを打ち明けてしまいたいという気持ちと激しく争っているのだ。しかし結局、彼はその揺れを自分の内でなんとか鎮しずめた。そして言った。 |
Takatsuki suy nghĩ về câu hỏi này một lúc. Iefuku thoáng thấy chuyển động trong mắt hắn. Iefuku
đoán hắn đang do dự. Hắn
đang đấu
tranh quyết liệt với mong muốn tiết lộ điều gì đó ở đây. Tuy nhiên, cuối cùng, Takatsuki
đã trấn
áp được sự dao động đó trong lòng.
Rồi hắn nói. |
「女の人が何を考えているか、僕らにそっくりわかるなんてことはまずないんじゃないでしょうか。僕が言いたいのはそういうことです。相手がたとえどんな女性であってもです。だからそれは家福さん固有の盲点であるとか、そういうんじゃないような気がします。もしそれが盲点だとしたら、僕らはみんな同じような盲点を抱えて生きているんです。だからあまりそんな風に自分を責めない方がいいように思います」 |
“Người
phụ nữ đang nghĩ gì thì không chắc rằng chúng ta sẽ hiểu chính xác về nó.
Ý tôi là thế. Không cần biết đó là loại phụ nữ nào.
Vì vậy, tôi cảm thấy rằng đó không phải là một điểm mù đặc biệt đối với
anh Iefuku. Nếu đó là một điểm mù thì tất cả chúng ta đều sống với những
điểm mù giống nhau. Vì vậy, tôi nghĩ tốt hơn là không nên tự trách mình nhiều như vậy.” |
家福は彼の言ったことについてしばらく考えた。そして言った。「でもそれはあくまで一般論だ」 |
Iefuku nghĩ về những gì hắn nói một lúc. Và nói: “Nhưng đó chỉ là lí thuyết
chung chung.” |
「そのとおりです」と高槻は認めた。 |
“Đúng
vậy,” Takatsuki thừa nhận. |
「僕は今、死んだ妻と僕との話をしているんだ。それほど簡単に一般論にしてもらいたくないな」 |
“Tớ
đang nói chuyện về người vợ đã khuất của mình. Tớ không muốn mọi chuyện là dễ
dàng để khái quát như thế.” |
かなり長いあいだ高槻は黙っていた。それから言った。 |
Takatsuki đã im lặng trong một khoảng thời gian. Sau đó hắn nói. |
「僕の知る限り、家福さんの奥さんは本当に素敵な女性でした。もちろん僕が知っていることなんて、家福さんが彼女について知っていることの百分の一にも及ばないと思いますが、それでも僕は確信をもってそう思います。そんな素敵な人と二十年も一緒に暮らせたことを、家福さんは何はともあれ感謝しなくちゃいけない。僕は心からそう考えます。でもどれだけ理解し合っているはずの相手であれ、どれだけ愛している相手であれ、他人の心をそっくり覗き込むなんて、それはできない相談です。そんなことを求めても、自分がつらくなるだけです。しかしそれが自分自身の心であれば、努力さえすれば、努力しただけしっかり覗き込むことはできるはずです。ですから結局のところ僕らがやらなくちゃならないのは、自分の心と上手に正直に折り合いをつけていくことじゃないでしょうか。本当に他人を見たいと望むのなら、自分自身を深くまっすぐ見つめるしかないんです。僕はそう思います」 |
“Theo
những gì tôi biết thì vợ của anh Iefuku là một người phụ nữ thực sự tuyệt.
Tôi tin chắc điều đó ngay cả khi tôi nhận ra rằng những gì tôi biết thì chưa bằng một phần một
trăm những gì anh Iefuku biết về nàng. Nếu không có
gì khác thì anh Iefuku nên cảm thấy biết ơn vì đã sống với một người tuyệt vời như thế
hai mươi niên. Tôi nghĩ như thế từ đáy lòng tôi. Nhưng dù có thương ái ra sao, dù có yêu nhau say
đắm thế nào đi nữa thì tôi e rằng cũng không thể nhìn thấu trái tim người
khác. Việc đòi hỏi như thế chỉ khiến bản thân đau
khổ mà thôi. Tuy nhiên, với trái tim của
chính mình thì chỉ cần nỗ lực, chỉ nỗ lực thôi là
có thể nhìn thấu được. Vì vậy, rốt cuộc điều chúng
ta phải làm thì chẳng phải là thu xếp một cách ổn thỏa và thành thật với
chính trái tim mình hay sao. Nếu thực sự mong
muốn nhìn thấu người khác thì chỉ còn cách là nhìn thật thẳng, thật sâu vào chính con người mình. Tôi nghĩ vậy.” |
高槻という人間の中にあるどこか深い特別な場所から、それらの言葉は浮かび出てきたようだった。ほんの僅かなあいだかもしれないが、その隠された扉が開いたのだ。彼の言葉は曇りのない、心からのものとして響いた。少なくともそれが演技でないことは明らかだった。それほどの演技ができる男ではない。家福は何も言わず、相手の目を覗き込んだ。高槻も今度は目を逸らさなかった。二人は長いあいだ相手の目をまっすぐ見つめていた。そしてお互いの瞳の中に、遠く離れた恒星のような輝きを認めあった。 |
Những lời này như thể bật
ra từ một nơi nào đó đặc biệt,
nằm sâu bên trong con người có tên Takatsuki. Cánh cửa bí ẩn đã hé mở, có lẽ trong một thời gian ngắn. Lời
của hắn đến từ chính trái tim,
không chút ẩn ý. Ít ra thì đó không phải là
diễn. Hắn không phải người có
thể diễn đến mức như vậy. Iefuku
không nói gì, mà chỉ nhìn thẳng vào mắt
đối phương. Lần này, Takatsuki không lảng tránh. Hai người nhìn nhau một lúc lâu. Rồi cả hai cùng nhận ra ánh sáng giống như
hằng tinh xa tít tắp ở trong mắt nhau. |
|
|
別れ際にまた二人は握手をした。外に出ると弱い雨が降っていた。ベージュのレインコートを着た高槻が傘もささず、その雨の中に歩いて消えてしまったあと、家福はいつものように自分の右の手のひらをしばらく見つめた。そしてあの手が妻の裸の身体を撫でたのだと思った。 |
Lúc chia tay thì cả hai
lại bắt tay nhau. Ra đến bên ngoài thì trời
đang mưa nhỏ. Sau khi Takatsuki -
không che dù, chỉ mặc mỗi chiếc áo mưa
màu be - khuất bóng dưới làn mưa, thì
như mọi bận, Iefuku lại nhìn chằm
chằm vào lòng bàn tay phải.
Và y lại nghĩ ngợi, chính bàn tay đó đã vuốt
ve cơ thể trần truồng của vợ mình. |
しかしそう思っても、その日はなぜか息苦しい気持ちにはならなかった。そういうこともあるのだろう、と思っただけだった。たぶんそういうこともあるのだろう。だってそれはただの肉体じゃないか、と家福は自分に言い聞かせた。やがては小さな骨と灰になってしまうだけのものじゃないか。もっと大切なものがきっと他にあるはずだ。 |
Tuy nhiên, dù nghĩ vậy nhưng vì một lí do nào đó mà y không cảm
thấy ngột ngạt vào ngày hôm ấy. Y
chỉ nghĩ hẳn là có chuyện đó.
Có lẽ là có chuyện đó. Iefuku tự nhủ dù sao
cũng chỉ là chuyện thân xác. Chẳng phải rồi cũng sẽ thành nắm xương và
đống tro tàn hay sao? Chắc chắn phải có thứ gì đó quan trọng hơn. |
もしそれが盲点だとしたら、僕らはみんな同じような盲点を抱えて生きているんです。その言葉が家福の耳に長いあいだ残っていた。 |
Nếu đó là một điểm mù thì
tất cả chúng ta đều sống với những điểm mù giống nhau. Lời
nói đó vẫn ở trong tai Iefuku rất lâu. |
|
|
「その人とは長く友だちとしてつきあったのですか?」とみさきは前方の車の連なりを見つめながら尋ねた。 |
“Anh đã làm bạn
với kẻ đó trong một thời gian dài chứ?” Misaki hỏi, nhìn chằm chằm vào dòng xe trước mặt. |
「かれこれ半年近く友だちづきあいをして、月に二度くらいどこかの酒場で待ちあわせ、一緒に酒を飲んだ」と家福は言った。「それからまったく会わなくなった。誘いの電話がかかってきても、無視した。こちらからは連絡をしなかった。そのうちに電話もかかってこなくなった」 |
“Chúng tôi làm bạn
trong gần nửa niên, gặp nhau tại một quán bar khoảng hai lần một tháng và uống
rượu cùng nhau,” Iefuku nói. “Sau đó, tôi hoàn toàn không gặp
hắn. Tôi phớt lờ những cuộc gọi mời. Tôi không chủ động liên lạc với hắn. Rồi hắn không còn điện thoại gọi đến nữa.” |
「向こうは不思議に思っているでしょうね」 |
“Chắc phía bên kia thấy lạ lắm.” |
「たぶん」 |
“Có lẽ.” |
「傷ついたかもしれない」 |
“Biết đâu lại thấy bị tổn thương.” |
「そうかもしれない」 |
“Có thể như vậy.” |
「どうして急に会わなくなったんですか?」 |
“Sao tự nhiên anh không gặp nữa?” |
「演技をする必要がなくなったからだよ」 |
“Vì không cần phải diễn nữa.” |
「演技をする必要がなくなったから、友だちでいる必要もなくなったということですか?」 |
“Vì không cần phải diễn nữa nên cũng không
cần làm bạn nữa?” |
「それもある」と家福は言った。「でも別のこともある」 |
“Cũng một phần.” Iefuku nói. “Nhưng còn vì chuyện khác.” |
「どんなことですか?」 |
“Chuyện gì?” |
家福は長いあいだ黙っていた。みさきは火のついていない煙草をくわえたまま、家福の顔をちらりと見た。 |
Iefuku im lặng hồi lâu. Misaki vẫn ngậm điếu thuốc chưa châm lửa, khẽ quay sang nhìn y Iefuku. |
「吸いたければ、煙草を吸ってもいいよ」と家福は言った。 |
“Nếu muốn thì cô cứ hút.” Iefuku nói. |
「はあ?」 |
“Hả?” |
「それに火をつけてもいい」 |
“Cô có thể châm thuốc.” |
「屋根は閉まっていますが」 |
“Nhưng mui đang đóng.” |
「かまわない」 |
“Tôi không quan tâm.” |
みさきは窓ガラスを下ろし、車のライターでマールボロに火をつけた。そして煙を大きく吸い込み、うまそうに目を細めた。しばらく肺に留めてから、窓の外にゆっくりと吐き出した。 |
Misaki hạ tấm kính cửa sổ và châm lửa cho điếu Marlboro. Sau
đó cổ rít một hơi dài, nheo mắt đầy sảng khoái. Cổ giữ trong phổi một lúc, rồi nhẹ nhàng phả khói ra ngoài cửa sổ. |
「命取りになるぞ」と家福は言った。 |
“Nó gây trí mạng đấy,” Iefuku nói. |
「そんなことを言えば、生きていること自体が命取りです」とみさきは言った。 |
“Nói như thế thì bản thân việc sống cũng gây
trí mạng,” Misaki nói. |
家福は笑った。「ひとつの考え方ではある」 |
Iefuku bật cười. “Cũng là một cách nghĩ.” |
「家福さんが笑ったのを初めて見ました」とみさきは言った。 |
“Lần
đầu tiên tôi thấy anh Iefuku cười,”
Misaki nói. |
そう言われればそうかもしれないと家福は思った。演技ではなく笑ったのはずいぶん久しぶりかもしれない。 |
Cổ có lí, Iefuku nghĩ. Hình như khá lâu rồi y mới cười mà không
phải là diễn. |
「前から言おうと思っていたんだが」と彼は言った。「よく見ると君はなかなか可愛い。ちっとも醜くなんかない」 |
“Tôi đã định nói với cô từ trước.” Y nói. “Nhìn kĩ thì cô rất đáng yêu đấy. Không xấu xí tẹo nào.” |
「ありがとうございます。私も醜いとは思いません。ただあまり器量がよくないだけです。ソーニャと同じように」 |
“Cảm ơn anh nhiều. Tôi cũng không nghĩ tôi xấu xí. Chỉ là diện mạo
không xinh thôi. Giống như Sonya vậy.” |
家福は少し驚いてみさきを見た。「『ヴァーニャ伯父』を読んだんだね」 |
Iefuku hơi ngạc nhiên và nhìn Misaki. “Cô đã đọc ‘Chú Vanya’ rồi
hử?” |
「毎日台詞を細切れに、順序もでたらめに聞かされているうちに、どんな話なのか知りたくなったんです。私にも好奇心はあります」とみさきは言った。「『ああ、いやだ。たまらない。どうして私はこうも不器量に生まれついたんだろう? つくづくいやになってしまう』。悲しい芝居ですね」 |
“Hằng ngày cứ phải nghe những lời thoại ngắt
quãng, lộn xộn nên tôi cũng muốn biết câu chuyện đó
thế nào. Tôi cũng có trí tò mò mà.” Misaki
nói. “'Không, không được. Không thể chịu được. Tại sao tôi sinh ra
lại xấu xí thế này? Tôi chán lắm rồi.' Đó là một vở kịch buồn.” |
「救いのない話だ」と家福は言った。「『ああ、やりきれない。どうにかしてくれ。私はもう四十七になる。六十で死ぬとして、これからあと十三年生きなくちゃならない。長過ぎる。その十三年をいったいどうやって過ごしていけばいいんだ? どんなことをして毎日を埋めていけばいいんだ?』。当時の人たちはだいたい六十で死んでいた。ヴァーニャ伯父さんは今の時代に生まれなくてまだよかったのかもしれない」 |
“Đó
là một câu chuyện không có sự giải thoát,” Iefuku nói. “'Ôi, thật không thể chịu nổi! Có điều cứu giúp nào không? Bây
giờ tôi bốn mươi bảy. Nếu tôi sống đến sáu mươi thì tôi còn mười ba niên nữa
để phải sống. Quá lâu. Làm thế nào tôi sẽ trải qua mười ba niên đó? Tôi sẽ làm
gì để lấp đầy mỗi ngày?' Người ta chỉ sống đến khoảng sáu mươi hồi đó. Chú
Vanya thật may mắn khi chú không được sinh ra trong thế giới ngày nay.” |
「調べてみたんですが、家福さんとうちの父は同じ年の生まれでした」 |
“Tôi tìm hiểu và thấy anh Iefuku sinh cùng niên
với bố tôi.” |
家福はそれには返事をしなかった。黙ってカセットテープを何本か手に取り、ラベルに書かれた曲目を調べた。しかし音楽はかけなかった。みさきは左手に火のついた煙草を持ち、その手を窓の外に出していた。車列がそろそろと前に進み、シフトチェンジをするときだけ、両手を使えるようにするために、唇に短く煙草をくわえた。 |
Iefuku không đáp. Y im lặng,
cầm vài cuộn băng cassette lên,
xem tên bài hát viết trên bìa.
Nhưng y không bật nhạc. Misaki cầm điếu thuốc đã
châm lửa ở tay trái, đưa tay ra ngoài cửa sổ
xe. Hàng xe từ từ nhích về
phía trước, chỉ những lúc gạt cần số
thì cổ mới cho thuốc lên miệng để có thể điều khiển cả hai tay. |
「実を言うと、その男をなんとか懲らしめてやろうと考えていたんだ」と家福は打ち明けるように言った。「僕の奥さんと寝ていたその男を」。そしてカセットテープをもとあった場所に戻した。 |
“Thành thật mà
nói thì tôi muốn trừng phạt tên đó,” Iefuku nói, như thể đang thú nhận điều gì. “Kẻ đã ngủ với vợ
tôi.” Y lại đặt các cuộn băng vào hộp đựng của
chúng. |
「懲らしめる?」 |
“Trừng
phạt?” |
「何かひどい目にあわせてやろうと思っていた。友だちのふりをして安心させ、そのうちに致命的な弱点のようなものを見つけ、それをうまく使って痛めつけてやるつもりだった」 |
“Tôi định cho hắn một phen khốn đốn. Tôi sẽ giả
làm bạn hắn, khiến hắn yên tâm, sau đó tìm ra điểm yếu chết người của hắn,
lợi dụng điểm yếu đó để khiến hắn tổn thương.” |
みさきは眉を寄せ、その意味を考えていた。「弱点って、たとえばどんなことを?」 |
Misaki chau mày, nghĩ về ý nghĩa câu nói. “Điểm yếu, chẳng hạn như là?” |
「そこまではわからない。しかし酒が入るとわきが甘くなる男だから、そのうちにきっと何か見つけられたはずだ。それを手がかりにして、スキャンダルを──社会的信用を失墜させるような問題を起こさせるのは、そんなにむずかしいことじゃない。もしそうなれば、離婚の調停で子供の親権はまずとれなくなるだろうし、それは彼には耐え難いことだ。おそらく立ち直れないだろう」 |
“Tôi không biết xa như vậy. Nhưng hắn là kiểu
người mà uống rượu vào là mất cảnh giác nên thế nào tôi cũng tìm ra thôi.
Điều đó sẽ là mấu chốt để tôi tạo ra một vụ tai tiếng – một vụ có thể hủy hoại thanh danh của hắn, việc này không đến nỗi
khó lắm. Khi đó, hắn sẽ không có quyền gặp con nếu ra tòa li hôn. Hắn khó mà
chịu đựng nổi điều này. Có khi còn không gượng dậy nổi đó chứ.” |
「暗いですね」 |
“U ám quá.” |
「ああ、暗い話だよ」 |
“Đúng, u ám thật.” |
「その人が家福さんの奥さんと寝ていたから、仕返しをするということ?」 |
“Vì kẻ đó ngủ với vợ anh Iefuku nên anh trả
thù à?” |
「仕返しというのとは少し違う」と家福は言った。「でも僕はどうしてもそのことが忘れられなかった。忘れてしまおうとずいぶん努力はした。でも駄目だった。うちの奥さんがほかの男の腕に抱かれている情景が頭を離れなかった。いつもそれが蘇よみがえってくるんだ。まるで行き場のない魂が天井の隅っこにずっと張りついて、こちらを見守っているみたいに。妻が死んで時間が経てば、そんなものはやがて消えてなくなるだろうと思っていた。でも消えなかった。むしろ前よりもっと気配が強くなったくらいだ。僕としてはそれをどこかにやってしまう必要があった。そのためには、自分の中にある怒りのようなものを解消しなくてはならなかった」 |
“Nó hơi khác với trả thù.” Iefuku nói. “Nhưng tôi không tài nào quên được chuyện đó. Tôi đã cố để quên
đi. Nhưng không được. Hình ảnh nàng trong vòng tay người đàn ông khác cứ in hằn trong
tâm trí tôi. Lúc nào nó cũng chập
chờn hiện về. Hệt như vong linh không siêu thoát bị mắc kẹt trên trần nhà,
nhìn chằm chằm vào tôi. Tưởng rằng sau khi vợ tôi chết, cùng với thời gian
thì nó sẽ biến mất. Nhưng không. Hình bóng của nó thậm chí còn rõ nét hơn lúc
trước. Tôi cần phải xua nó sang chỗ khác. Để làm vậy, tôi cần phải triệt tiêu
thứ giống như cơn tức giận trong con người mình.” |
北海道上十二滝町からやってきた自分の娘くらいの年の女を相手に、どうしてこんな話をしているのだろうと家福は思った。しかしいったん語り始めたことを、彼は止められなくなっていた。 |
Iefuku tự hỏi tại sao y lại kể tất cả điều này với một phụ nữ trẻ bằng
tuổi con gái của y đến từ Junitakicho ở Hokkaido. Tuy nhiên, khi đã bắt đầu thì y thấy mình không thể dừng
lại. |
「だからその人を懲らしめようと思った」と娘は言った。 |
“Vì thế anh muốn trừng phạt kẻ đó.” Cô
gái nói. |
「そう」 |
“Đúng thế.” |
「でも実際には何もしなかったんですね?」 |
“Nhưng thực tế anh đã không làm gì cả?” |
「ああ、しなかったよ」と家福は言った。 |
“Không, không làm.” Iefuku đáp. |
みさきはそれを聞いて少し安心したようだった。小さく短く息をつき、火のついた煙草をそのまま窓の外に弾はじいて捨てた。たぶん上十二滝町ではみんなが普通にやっていることなのだろう。 |
Misaki có vẻ nhẹ nhõm hơn khi nghe điều đó. Cổ
thở hơi gấp, vẩy điếu thuốc vẫn cháy
ra ngoài cửa sổ rồi vứt đi.
Có lẽ ở Junitakicho, bình thường mọi người
đều làm vậy. |
「うまく説明できないんだけど、あるとき急にいろんなことがどうでもよくなってしまったんだ。憑つきものがすとんと落ちたみたいに」と家福は言った。「もう怒りも感じなくなっていた。あるいはそれは本当は怒りではなく、何か別のものだったのかもしれない」 |
“Tôi không thể giải thích rõ ràng nhưng đến một
lúc, tự nhiên mọi thứ muốn ra sao cũng được. Như thể vong linh đã rơi xuống.” Iefuku nói. “Tôi không còn thấy tức giận nữa. Hoặc đó thật ra đó chẳng phải là
nỗi tức giận nhưng là một thứ gì khác.” |
「でも、それは家福さんにとって間違いなく良いことだったと思います。どのようなかたちにせよ、人を傷つけたりしなかったことは」 |
“Nhưng
tôi nghĩ đó chắc chắn là một điều tốt cho anh Iefuku.
Anh không làm tổn thương bất cứ ai theo bất kì cách nào.” |
「僕もそう思う」 |
“Tôi
đồng ý với cô.” |
「しかし奥さんがどうしてその人とセックスをしたのか、どうしてその人でなくてはならなかったのか、家福さんにはそれがまだつかめないんですね?」 |
“Nhưng
tại sao vợ anh lại quan hệ tình dục với kẻ đó,
tại sao phải là kẻ đó thì anh Iefuku vẫn chưa thể tìm ra,
đúng không?” |
「ああ、つかめていないと思う。そいつはまだ僕の中に疑問符つきで残っている。その男は裏のない、感じの良いやつだった。うちの奥さんのことが本気で好きだったらしい。単なる遊びで彼女と寝ていたわけじゃなかった。彼女が死んだことで、心からショックを受けていた。死ぬ前に見舞いに来ようとして断られたことも傷になって残っていた。僕は彼に好意を感じないわけにはいかなかったし、本当に友だちになってもいいと思ったくらいだった」 |
“Ồ, tôi không nghĩ là mình đã nắm
rõ. Điều đó vẫn là dấu
hỏi trong tôi. Hắn là người dễ chịu, không giả tạo. Hắn thích vợ tôi thật
lòng. Không phải ngủ với nàng theo kiểu chơi bời. Khi nàng mất thì hắn thực
sự bị sốc. Hắn vẫn thấy
day dứt vì không thể vào thăm nàng trước lúc nàng mất do bị nàng khước từ.
Tôi không thể không có cảm tình với hắn, đến nỗi tôi thật sự còn nghĩ hắn có
thể trở thành bạn của tôi.” |
家福はそこで話しやめ、心の流れを辿たどった。少しでも事実に近い言葉を探した。 |
Iefuku
ngừng nói ở đó và lần theo dòng chảy của trái tim mình để tìm ra những từ ngữ phù hợp nhất. |
「でも、はっきり言ってたいしたやつじゃないんだ。性格は良いかもしれない。ハンサムだし、笑顔も素敵だ。そして少なくとも調子の良い人間ではなかった。でも敬意を抱きたくなるような人間ではない。正直だが奥行きに欠ける。弱みを抱え、俳優としても二流だった。それに対して僕の奥さんは意志が強く、底の深い女性だった。時間をかけてゆっくり静かにものを考えることのできる人だった。なのになぜそんななんでもない男に心を惹かれ、抱かれなくてはならなかったのか、そのことが今でも棘とげのように心に刺さっている」 |
“Nhưng nói thẳng ra thì hắn chẳng có gì ghê gớm
cả. Hắn có thể có tính cách tốt. Hắn đẹp trai, và nụ cười quyến rũ. Ít ra thì hắn không
phải kẻ vụ lợi. Nhưng hắn không phải là loại người mà được kính nể. Thành
thật, nhưng thiếu chiều sâu. Hắn là diễn viên hạng hai với những yếu kém. Ngược lại thì vợ tôi lại là một phụ nữ có
ý chí mạnh mẽ và sâu sắc. Nàng là loại người có thể suy nghĩ chậm rãi và lặng
lẽ theo thời gian. Nhưng tại sao nàng đã bị thu hút và được ôm ấp bởi một thằng
đàn ông không ra gì như thế? Điều đó vẫn còn như gai nhọn cứa vào tim tôi.” |
「それはある意味では、家福さん自身に向けられた侮辱のようにさえ感じられる。そういうことですか?」 |
“Theo cảm thức nào đó thì anh Iefuku cảm
thấy điều này như một sự sỉ nhục cho chính bản thân anh. Đúng vậy không?” |
家福は少し考え、正直に認めた。「そういうことかもしれない」 |
Iefuku suy nghĩ một chút và thành thật thừa nhận. “Có lẽ là như vậy.” |
「奥さんはその人に、心なんて惹かれていなかったんじゃないですか」とみさきはとても簡潔に言った。「だから寝たんです」 |
“Vợ
anh không bị thu hút bởi kẻ đó,”
Misaki nói rất ngắn gọn. “Đó là lý do tại sao nàng
ngủ.” |
家福は遠い風景を見るみたいに、みさきの横顔をただ眺めていた。彼女は何度かワイパーを素速く動かして、フロントグラスについた水滴を取った。新しくなった一対のブレードが、不服を言い立てる双子のように硬く軋きしんだ音を立てた。 |
Iefuku ngắm nhìn gương
mặt trông nghiêng của Misaki như thể đang ngắm phong cảnh đằng xa. Cổ cho cần gạt nước xoay mấy lần để gạt
nước trên kính trước. Cặp lưỡi gạt nước còn mới
nên phát ra tiếng cọt kẹt như thể một cặp sinh đôi đang cãi cọ. |
「女の人にはそういうところがあるんです」とみさきは付け加えた。 |
“Đó
là những gì phụ nữ làm,” Misaki nói thêm. |
言葉は浮かんでこなかった。だから家福は沈黙を守った。 |
Iefuku không
biết phải nói gì. Vì vậy, y tiếp tục
im lặng. |
「そういうのって、病のようなものなんです、家福さん。考えてどうなるものでもありません。私の父が私たちを捨てていったのも、母親が私をとことん痛めつけたのも、みんな病がやったことです。頭で考えても仕方ありません。こちらでやりくりして、吞み込んで、ただやっていくしかないんです」 |
“Đó
là một loại giống như căn bệnh,
anh Iefuku à. Chẳng có gì phải suy nghĩ.
Việc bố tôi đã bỏ rơi mẹ con tôi, việc mẹ tôi làm tổn thương tôi đến cùng, thì tất cả đều là do căn bệnh hết.
Không có logic nào liên quan. Tất cả những gì tôi có thể làm
là chấp nhận những gì họ đã làm và cố gắng tiếp tục cuộc sống của mình.” |
「そして僕らはみんな演技をする」と家福は言った。 |
“Và tất cả chúng ta đều diễn.” Iefuku nói. |
「そういうことだと思います。多かれ少なかれ」 |
“Tôi nghĩ vậy. Không ít thì nhiều.” |
家福は革のシートに深く身を沈め、目を閉じて神経をひとつに集中し、彼女がおこなうシフトチェンジのタイミングを感じ取ろうと努めた。しかしやはりそれは不可能だった。すべてはあまりに滑らかで、秘密めいていた。耳に届くエンジンの回転音が僅かに変化するだけだ。行き来する虫の羽ばたきのように。それは近づき、そして遠ざかる。 |
Iefuku ngả sâu người
trong chiếc ghế da, nhắm mắt và cố gắng tập trung tâm trí vào tiếng động cơ khi Misaki
sang số. Nhưng y không thể nắm bắt thời điểm chính
xác. Tất cả đều quá trơn tru, quá bí ẩn.
Chỉ có tiếng động cơ quay vọng đến tai y là thay đổi đôi chút. Giống như tiếng đập cánh của con côn trùng
bay qua bay lại. Hết gần lại xa. |
少し眠ろうと家福は思った。ひとしきり深く眠って、目覚める。十分か十五分、そんなものだ。そしてまた舞台に立って演技をする。照明を浴び、決められた台詞を口にする。拍手を受け、幕が下りる。いったん自己を離れ、また自己に戻る。しかし戻ったところは正確には前と同じ場所ではない。 |
Iefuku nghĩ sẽ ngủ một chút. Ngủ một giấc thật sâu và thức giấc. Đủ hoặc mười lăm phút, thế là xong. Và y sẽ lại diễn trên sân khấu. Đắm
mình dưới ánh đèn, đọc lời thoại có sẵn. Nhận tràng pháo tay, hạ màn.
Thoát khỏi bản thân, rồi lại trở về với bản
thân. Nhưng khi quay lại thì
không còn chính xác là nơi cũ nữa. |
「少し眠るよ」と家福は言った。 |
“Tôi
sẽ ngủ một chút,” Iefuku nói. |
みさきは返事をしなかった。そのまま黙って運転を続けた。家福はその沈黙に感謝した。 |
Misaki không trả lời. Cổ cứ im lặng lái xe. Iefuku biết ơn vì sự im lặng đó. |
Bút Lông Kim 30 tháng Ba 2022
Nhận xét
Đăng nhận xét